Mô tả: Cây thảo sống lâu năm, có thân bò dài đến 0,5m và cho thân đứng ở lông dày hay hầu như không lông. Lá mọc đối, có cuống dài, phiến hình thận hay hình tim, rộng 1,5-4cm, mép có răng to. Chùm hoa ở nách lá, đài cao 5,5-8mm có răng nhọn, cao bằng 1/2 ống, tràng màu lam tía, môi trên có 2 răng nhỏ, môi dưới có thuỳ giữa dài. Quả bế to, cứng, màu nâu đen.
Nơi sống và thu hái: Loài của Trung Quốc, Triều Tiên và Bắc Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc ở Cao Lộc (Lạng Sơn) và được trồng ở vùng rừng núi. Trồng bằng thân ngầm có rễ vào mùa xuân. Thu hái cây quanh năm, nhưng tốt nhất là vào mùa hạ, rửa sạch dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Thành phần hoá học: Cây chứa tinh dầu dễ bay hơi (0,03-0,06% cây khô) với các vết của aldechyl và ceton như pinocamphone, menthone, isomenthone, pulegone; 2,6% tanin, một chất đắng tương đồng với marrubiiit, một chất nhựa một chất sáp, một chất béo, 3% đường và còn có cholin. Cây giàu muối kali. Hạt cũng chứa đầu.
Tính vị, tác dụng: Vị cay, hơi đắng, tính hàn; có tác dụng lợi niệu thông lâm, thanh nhiệt giải độc, tán ứ tiêu thũng. Còn có thể khư phong trừ thấp, hoạt huyết tán hàn.
Liều dùng 15-30g, dạng Thu*c sắc. Dùng ngoài trị viêm tuyến mang tai, mụn nhọt, đòn ngã tổn thương gẫy xương, giã cây tươi đắp tại chỗ.