Lá cây Coccoloba gigantifolia. Ảnh: Mongabay. |
Nhóm chuyên gia thực vật học ở viện nghiên cứu amazon (inpa) tại manaus phát hiện loài cây mới thuộc chi coccoloba ở rừng nhiệt đới châu mỹ. họ lần đầu tiên bắt gặp cây coccoloba vào năm 1982 khi khảo sát lưu vực sông madeira. sau đó, họ tìm thấy nhiều cá thể hơn trong các chuyến thám hiểm vào thập niên 1980 nhưng không thể xác định tên loài.
Cây được tìm thấy không có hoa hay quả. Lá của chúng cũng quá lớn để phơi khô, ép hoặc mang về INPA. Nhóm nghiên cứu buộc phải ghi chép và chụp ảnh làm tư liệu. Năm 1993, các nhà thực vật học thu thập hai chiếc lá lớn từ cá thể cây ở bang Rondônia để đóng khung tại INPA. Tuy nhiên, do thiếu bộ phận sinh sản, Rogério Gribel, nhà nghiên cứu ở INPA, và cộng sự không thể mô tả nó như một loài cây mới.
Năm 2005, gribel và đồng nghiệp carlos alberto cid ferreira gom được một số hạt giống từ một cá thể cây trong rừng quốc gia jamari. họ trồng số hạt giống này trong sân viện và mất 13 năm để thu lại kết quả. năm 2018, một trong những mẫu vật cây đã trồng nở hoa và ra quả, cung cấp dữ liệu cần thiết cho các nhà nghiên cứu. gribel và cộng sự đặt tên cho nó là coccoloba gigantifolia dựa theo kích thước lá khổng lồ của nó trong nghiên cứu công bố trên tạp chí acta amazonica.
Theo họ, C. gigantifolia rất hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng cao. Các cá thể cây này chỉ được ghi nhận từ vùng lưu vực sông Madeira thuộc bang Amazonas và Rondônia, khu vực đang bị ảnh hưởng bởi dự án cơ sở hạ tầng như xây đập thủy điện, làm đường và mở rộng nông nghiệp. Do những nguy cơ này, nhóm tác giả nghiên cứu đề nghị đưa C. gigantifolia vào danh mục nguy cấp trong Sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN).