Bệnh học nhi khoa hôm nay

Chăm sóc trẻ bị bệnh còi xương: dấu hiệu triệu chứng, chẩn đoán điều trị nhi khoa

Do xương loãng, mềm và lại phải tải gần như toàn bộ trọng lượng cơ thể cho nên hai chân của trẻ còi xương sẽ bị cong

Còi xương là một bệnh toàn thân, xảy ra trên một cơ thể mà hê xương c òn đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh, liên quan đến rối loạn chuyển hoá calci và phosphor do thiếu viamin D.

Như vây, còi xương là một bệnh loãng xương do thiếu vitamin D. Bệnh thường xảy ra ở trẻ bụ bẫm dưới 2 tuổi (vì cơ thể của những đứa trẻ này ph át triển mạnh, xương dài ra nhanh, nhu cầu về calci và phosphor cao, nên khi không có sự lắng đọng calci và phosphor thì xương sẽ bị loãng).

Bênh còi xương có tỷ lê cao ở những nước sương mù, ít có ánh nắng mặt trời. Viêt nam, là nước ở vùng nhiêt đới, nhưng tỷ lê còi xương tương đối cao.

Nguyên nhân

Vai trò của vitamin D

Tham gia vào quá trình hấp thu calci và phosphor từ ruột vào máu.

Đưa calci, phosphor từ máu vào lắng đọng ở xương.

Dưới tác dụng của hormon cân giáp, vitamin D làm tăng tái hấp thu calci và phosphor ở ống lượn xa của thân.

Như vây, hàm lượng calci và phosphor trong cơ thể đủ hay thiếu đều phụ thuộc vào vitamin D. Do đó thiếu vitamin D sẽ dẫn đến bệnh lý loãn g xương, hay còn gọi là còi xương.

Nguồn cung cấp vitamin D

Từ nguồn ăn uống: Thức ăn thường có ít vitamin D. Ví dụ: Vitamin D trong sữa mẹ là 50 đv/lít, trong sữa bò là 10 đv/lít. Chỉ có một số thức ăn giầu vitamin D như dầu gan cá, trứng.

Từ nguồn nội sinh: Là nguồn cung cấp vitamin D chủ yếu. Trên da trẻ em có chất tiền vitamin D là 7 - Dehydrocholesteron. Dưới ánh sáng tử ngoại của mặt trời, tiền vitamin D sẽ chuyển thành vitamin D:

7- Dehydrocholesteron

(Tiền vitamin D)

ánh nắng mặt trời

Vitamin D

(Tia tử ngoại)

Nguyên nhân thiếu vitamin D

Thiếu ánh nắng mặt trời:

Nhà ở chât hẹp, tối tăm.

Không cho trẻ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

Mặc quá nhiều quần áo.

Thời tiết sương mù (mùa đông xuân...).

Ăn uống:

Trẻ em thiếu sữa mẹ: Sữa mẹ có tỷ lê calci/phosphor hợp lý, dễ hấp thu và tỷ lê vitamin D cao hơn sữa bò.

Ăn nhiều bột cũng cản trở quá trình hấp thu calci, phosphor.

Yếu tố nguy cơ:

Tuổi: bệnh còi xương hay xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi, là tuổi mà hê xương phát triển mạnh nhất.

Trẻ đẻ non: Có nhu cầu phát triển cao hơn, trong khi đó sự tích luỹ muối khoáng và vitamin D lại kém hơn.

Trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn nhất là ở hê tiêu hoá và hô hấp.

Màu da: Trẻ da màu hay bị còi xương hơn vì có sự cản trở quá trình tổng hợp vitamin D tại da.

Triệu chứng lâm sàng

Dấu hiệu thần kinh

Các dấu hiệu xuất hiên sớm:

Trẻ hay quấy khóc, ngủ không yên giấc, hay giât mình.

Ra mồ hôi trộm cả khi trời lạnh.

Rụng tóc ở gáy - gọi là dấu hiêu “chiếu liếm” thường xảy ra muộn hơn do trẻ ngứa ngáy, kích thích, nằm hay lắc đầu.

Dấu hiệu ở xương

Mềm xương là những dấu hiệu sớm:

Xương sọ: mềm, ấn vào có thể gây lõm như ấn vào quả bóng nhựa; thóp rộng, bờ thóp mềm, châm liền thóp.

Răng: thường mọc châm và mọc lộn xộn.

Mềm xương là biểu hiên của tình trạng bệnh đang tiến triển mạnh, cấp tính. Điêu trị đúng trong giai đoạn này sẽ cho kết quả tốt và không để lại những di chứng nặng nề cho trẻ.

Tăng sinh và biến dạng xương:

Xương sọ: Bướu trán, bướu đỉnh tạo cho đầu có hình “lâp phương”.

Xương hàm: Xương hàm dưới thường châm phát triển, hàm trên chìa ra.

Xương lổng ngực:

Khớp sụn sườn ở phía trước ngực tăng sinh phì đại tạo nên “chuỗi hạt sườn”.

Lổng ngực có thể bị biến dạng dô lên ở phía trước như “ngực gà” hoặc bị lõm vào ở vùng ngang vú tạo nên ngực “hình chuông”.

Xương tay:

Đầu dưới xương trụ, xương quay tăng sinh phì đại tạo nên “vòng cổ tay” .

Xương chân:

Đầu dưới xương chày tăng sinh phì đại tạo thành “vòng cổ chân”.

Do xương loãng, mềm và lại phải tải gần như toàn bộ trọng lượng cơ thể cho nên hai chân của trẻ còi xương sẽ bị cong như hình chữ “O”; cơ yếu nên khi đứng chân thường dựa đầu gối vào nhau tạo nên hình chữ “X”.

Xương sống: Cong, gù vẹo cũng do cơ chế trên.

Tăng sinh và biến dạng xương là hâu quả của sự mềm xương và là những biểu hiên muộn của bệnh còi xương. Những biến dạng trên đây thường để lại những di chứng vĩnh viễn, không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ, mà đối với trẻ gái còn gây nên những khó khăn đáng kể trong sinh đẻ do sự biến dạng của khung châu.

Hê cơ

Trương lực cơ giảm, gây nên hiên tượng bụng ỏng, trẻ châm biết ngổi, đứng, đi. Do vây dễ bị gù vẹo cột sống, chân hình chữ ‘X’.

Hê tạo máu

Trẻ còi xương thường có thiếu máu nhược sắc, da xanh, niêm mạc nhợt, hổng cầu to, gan lách thường to.

Kế hoạch chăm sóc, điều trị và phòng bệnh còi xương

Nhân định

Thăm khám toàn diên để xác định các dấu hiệu còi xương: Các dấu hiệu thần kinh, thóp có rộng không? bờ thóp có mềm không? có biểu hiên hạ calci huyết không? (có co giât không?) các xương có biến dạng không? Sự biến dạng của xương và giảm trương lực cơ đã ảnh hưởng như thế nào đến các chức năng khác như hô hấp, vân động? Khám xem trẻ có thiếu máu không? Trẻ bụ bẫm hay gầy còm? Khai thác nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ...

Chẩn đoán và chăm sóc

Các chẩn đoán chăm sóc có thể gặp:

Ra mổ hôi trộm nhiều, ngủ hay giât mình do rối loạn thần kinh thực vât liên quan đến thiếu vitamin D.

Thóp châm liền do rối loạn quá trình tạo xương vì thiếu Vitamin D.

Đầu to, đầu có nhiều bướu do rối loạn quá trình tạo xương vì thiếu Vitamin D.

Da xanh, niêm mạc nhợt do thiếu máu.

Biến dạng xương do loãng xương.

Co giât, co cứng do hạ calci máu

Can thiệp điều dưỡng

Dựa vào các chẩn đoán điều dưỡng để đưa ra những can thiệp phù hợp:

Với chẩn đoán “Co giât, co cứng do hạ calci máu”:

Can thiệp điều dưỡng trước tiên là thực hiện y lệnh tiêm tĩnh mạch muối calci như calci gluconat hoặc calci clorid 0,5 g. Chú ý: tiêm châm, không để chệch ven!

Các ngày sau: Cho bệnh nhi uống muối calci 1 - 2 g/ngày, đổng thời động viên bệnh nhi “tắm nắng” mỗi ngày 15 - 30 phút vào lúc 7 - 8 giờ sáng hoặc cho bệnh nhân uống Viamin D2 mỗi ngày 10 000 - 20 000 đv trong thời gian 30 đến 60 ngày.

Với chẩn đoán “Ra mổ hôi trộm nhiều, ngủ hay giật mình do rối loạn thần kinh thực vật liên quan đến thiếu vitamin D”:

Dùng Vitamin D2 600.000 - 800.000 đv/ đợt điều trị. Chia đều cho bệnh nhân uống trong vòng 30 - 60 ngày.

Cách dùng vitamin D 600.000 đv/liều duy nhất, hiên nay ít được áp dụng, vì dễ gây ngộ độc.

Nếu không có vitamin D2 để uống hoặc D3 để tiêm thì có thể tạo ra chúng từ tiền vitamin D bằng cách đưa trẻ đi chiếu đèn cực tím trong vòng 15 ngày: ngày đầu 2 phút, sau đó tăng dần mỗi ngày thêm 1 phút để đến ngày cuối (ngày thứ 15) có thời gian chiếu là 20 phút.

Cho bệnh nhi uống muối calci 1 - 2 g/ngày.

Giải thích cho người nhà biết nguyên nhân gây nên các dấu hiệu lâm sàng để họ yên tâm;

Nhắc nhở để người nhà thường xuyên lau mổ hôi nhằm đề phòng nhiễm lạnh cho trẻ.

Nhắc nhở người nhà đảm bảo chế độ ăn đầy đủ, giàu vitamin D cho cả mẹ và con. Cho trẻ tắm nắng thường xuyên khi có điều kiện. Xoá bỏ tập quán ăn kiêng mỡ.

Với chẩn đoán điều dưỡng “Biến dạng xương do loãng xương”:

Mời bác sỹ phẫu thuật chỉnh hình hội chẩn, để có biện pháp điều trị.

Động viên gia đình yên tâm cho con nằm điều trị.

Giữ ấm, giữ vệ sinh nhằm đề phòng bội nhiễm.

Phòng bệnh

Đối với mẹ

Phòng bệnh còi xương cần phải bắt đầu từ khi trẻ còn nằm trong bụng mẹ, vào 3 tháng cuối của thời kỳ phát triển trong bào thai. Trong thời gian này, nên cho mẹ uống mỗi ngày 1000 đv vitamin D hoặc uống 1 liều duy nhất là 100 000 đv, nếu người mẹ không có điều kiện tiếp xúc với ánh nắng mặt trời (mùa đông).

Đối với con

Ăn uống: Tốt nhất là cho trẻ bú mẹ. Khi ăn sam cần đảm bảo đầy đủ các chất đạm, mỡ, đường, vitamin và muối khoáng. Khi cai sữa cần đảm bảo mỗi ngày từ 200 - 400 ml sữa cho trẻ.

Tận dụng các yếu tố thiên nhiên: Cần cho trẻ chơi ở ngoài trời với thời gian thích hợp để trẻ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, nhất là vào buổi sáng.

Phòng bệnh đặc hiệu bằng vitamin D:

Dùng vitamin D mỗi ngày 1000 - 2000 đv liên tục từ 3 đến 6 tháng (tổng liều là 200 000 đv). Có thể dùng 1 liều duy nhất 200 000 đv vào mùa đông.

Dùng vitamin D là biện pháp chắc chắn nhưng phải thận trọng. Đối với trẻ có nguy cơ còi xương, nhưng đẻ ra có thóp trước nhỏ hoặc liền trước 8 tháng tuổi thì không được dùng vitamin D. Đối với những đứa trẻ này, nếu cho dùng vitamin D, thóp sẽ liền quá sớm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của não.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/benhhocnhi/cham-soc-tre-bi-benh-coi-xuong/)

Tin cùng nội dung

  • Nếu người thân của bạn vẫn còn trong giai đoạn đầu của bệnh sa sút trí tuệ, có thể họ chưa cần nhiều sự chăm sóc. Điều tốt nhất bạn có thể làm ở giai đoạn này là tìm hiểu về bệnh sa sút trí tuệ.
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Người đối diện có thể thấy rõ cúp áo ngực mấp mô sau lớp áo phông của bạn; luôn thấy có vết lằn áo trên da, dây áo hay bị rơi khỏi vai... là lúc bạn nên thay áo lót.
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Chẩn đoán tiền sản là một số xét nghiệm giúp cho bác sĩ biết trước khi sinh thai của bạn có bị một số bệnh lý hay không (thường gặp là hội chứng Down). Chẩn đoán tiền sản gồm chọc ối và sinh thiết gai nhau giúp phát hiện ra những rối loạn di truyền trước sinh.
  • Răng của trẻ bắt đầu phát triển dưới nướu trước cả khi chúng ta có thể nhìn thấy. Khoảng 6 tháng sau khi trẻ sinh ra, bạn có thể nhìn thấy chiếc răng đầu tiên. Đó chỉ mới là bước khởi đầu cho những nụ cười sẽ đi theo suốt cả đời người.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY