Điều trị tia xạ là phương pháp sử dụng các tia bức xạ ion hóa có năng lượng cao. Đó là các sóng điện từ (tia X, tia gamma,...) hoặc các hạt nguyên tử (electron, neutron,...) để điều trị bệnh ung thư.
Từ năm 1986, khi Berquenelle tìm ra tính chất phóng xạ Uranium thì việc ứng dụng tính phóng xạ của các chất phóng xạ để phục vụ cho các nhu cầu của con người ngày càng nhiều. Phương pháp này đã được áp dụng từ 100 năm nay nhưng nó vẫn là một trong những phương pháp chủ yếu để điều trị ung thư.
Chỉ điều trị tia xạ khi có chỉ định và chẩn đoán xác định, song chắc chắn nhất là chẩn đoán mô bệnh học.
Xác định thể tích tia chính xác và mối quan hệ với các cơ quan phụ cận qua chụp X.Quang, CT-Scan, MRI và qua máy mô phỏng.
Tác dụng trực tiếp: Tia xạ tác động ngay trên các chuổi ADN gây ra các tổn thương như gãy đoạn, đứt đoạn...gây đột biến tế bào và tế bào dể bị ch*t.
Tác dụng gián tiếp: Tia xạ gây ra hiện tượng ion hóa tạo ra các gốc tự do (trong đó chủ yếu là gốc tự do của phân tử nước). Các gốc tự do này sẽ tác động trực tiếp lên chuổi ADN và làm tổn thương tế bào.
Tổ chức ung thư là một tập hợp nhiều tế bào ung thư ở các giai đoạn phân chia khác nhau. Tia xạ làm cho tế bào ung thư bị ch*t, tổ chức ung thư teo nhỏ. Những tổ chức ung thư càng nhạy cảm với tia xạ thì teo nhỏ càng nhanh.
Việc cung cấp oxy tốt làm tăng độ nhạy cảm của tế bào với tia xạ. Những ung thư có nhiều mạch máu, nhiều oxy thì càng nhạy cảm với tia xạ.
Mức độ biệt hóa cũng có vai trò trong việc đáp ứng với tia xạ. Các tế bào càng kém biệt hóa thì càng nhạy cảm với tia xạ.
Tia X: Được tạo ra khi các điện tử âm được gia tốc trong các máy phát tia X hoặc máy gia tốc Betatron...
Tia Gamma: Được tạo ra do sự phân rã của các nguyên tử phóng xạ hoặc đồng vị phóng xạ. Tia Gamma được tạo ra do sự phân rã của các chất phóng xạ sau: Radium (Ra), Cobalt 60 (Co60), Cesium 137 (Ce137), Iode 125 và Iridium 192 (Ir192).
Tia Beta: Là nguồn phóng xạ có năng lượng yếu hơn nên chủ yếu để chẩn đoán và điều trị tại chổ: Iode 131 (I131).
Là các tia có năng lượng cao, khả năng đâm xuyên lớn và được tạo ra bởi các máy gia tốc. Đây là một thành tựu mới của nền khoa học kỹ thuật. Tùy theo máy phát mà ta có các loại tia:
Nguồn chiếu đặt ngoài cơ thể, máy sẽ hướng chùm tia vào vùng cần tia. Hiện nay đang sử dụng máy Co60 và máy gia tốc.
Nguồn xạ được đặt áp sát vào vùng tổn thương. Hiện nay đang sử dụng các loại nguồn như Radium, Cesium, Iridium...
Ngoài ra còn dùng một số đồng vị phóng xạ dạng lỏng như I131, P32 bơm trực tiếp vào cơ thể để chẩn đoán và điều trị một số bệnh ung thư.
Giúp nâng liều tại chỗ lên cao trong khi các tổ chức lành xung quanh ít bị ảnh hưởng hơn là chiếu xạ từ ngoài vào.
Tia xạ toàn bộ hệ thống hạch khu vực. Ví dụ trong ung thư vú, vùng tia phải bao trùm vùng vú, hạch vú trong và hạch nách.
Tia xạ phối hợp với hóa chất: Mục đích làm giảm thể tích khối u để tăng nhạy cảm với hóa chất bổ sung, tia xạ sau điều trị hóa chất mục đích tiêu diệt các khối u còn sót lại sau hóa trị.
Phản ứng da và niêm mạc: Có thể có hiện tượng viêm đỏ, khô và bong da hoặc nặng hơn có thể loét. Có thể hạn chế các tác dụng phụ này bằng các loại kem dưỡng da và làm mềm da đặc biệt.
Hệ thống máu và cơ quan tạo máu: Có thể làm giảm bạch cầu, tiểu cầu và hồng cầu. Khi lượng hồng cầu và bạch cầu giảm nặng thì phải ngừng tia, nâng cao thể trạng và dùng Thu*c kích thích tạo hồng cầu và bạch cầu.