Biến chứng thường gặp của bệnh là đau thần kinh sau zona, đôi khi trở thành mãn tính. Ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch nặng, sang thương zona rất dễ bùng phát lan tỏa và có thể gây Tu vong.
Trong khi đó vảy nến có biểu hiện bệnh lý ở da, móng, khớp, là bệnh lành tính, không lây, chiếm tỉ lệ khoảng 1-3% dân số. Thương tổn ngoài da của vảy nến là các hồng ban không tẩm nhuận, giới hạn rõ, đóng vảy trắng như sáp đèn cầy (nến), kích thước thay đổi từ 1-20cm hay to hơn.
Theo một nghiên cứu vừa trình bày tại Viện hàn lâm Da liễu Hoa Kỳ, phương pháp điều trị bệnh vảy nến bằng cách dùng methotrexate kết hợp với một Thu*c sinh học ức chế TNF có thể liên quan với việc làm tăng nguy cơ bị zona cho bệnh nhân so với các phương pháp đơn trị liệu khác.
Do vậy, các tác giả đề nghị bác sĩ chuyên khoa da liễu khi chuẩn bị phương pháp điều trị vảy nến bằng cách dùng Thu*c sinh học kết hợp với methotrexate, nên chủng ngừa zona cho những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao nhằm làm giảm tần suất mắc bệnh, giảm mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng zona và giảm tỉ lệ các biến chứng (ví dụ đau thần kinh sau zona) cho bệnh nhân.
Theo BS Lê Đức Thọ - Tuổi trẻChủ đề liên quan:
điều trị điều trị vảy nến điều trị vẩy nến giời leo mangyte.vn nguy cơ thủy đậu trị vảy nến vảy nến vẩy nến