Những người mắc bệnh lao thường phải dùng Thuốc theo phác đồ gồm nhiều loại. Thời gian điều trị củng cố kéo dài, điều trị ngoại trú và tự uống Thuốc. Có rất nhiều trường hợp bệnh nhân khi dùng Thuốc chống lao gặp phải các tác dụng không mong muốn,
Những người mắc bệnh lao thường phải
dùng Thuốc theo phác đồ
gồm nhiều loại. Thời gian điều trị củng cố kéo dài, điều trị ngoại trú và tự
uống Thuốc. Có rất nhiều trường hợp bệnh nhân khi
dùng Thuốc chống lao gặp phải
các tác dụng không mong muốn, nếu không có hiểu biết đầy đủ rất dễ dẫn đến việc
không tuân thủ điều trị khiến bệnh không khỏi, bệnh lây lan trong cộng đồng,
đặc biệt gây nên tình trạng vi khuẩn lao kháng Thuốc.
Streptomycin
Thuốc ít hấp thu qua đường tiêu hóa, chủ yếu dùng tiêm bắp.
Ưu điểm nổi bật của streptomycin là có tác dụng tốt trên trực khuẩn lao, nhất
là vi khuẩn lao ở giai đoạn sinh sản nhanh. Ngoài ra, Thuốc còn tác dụng cả
trên trực khuẩn gây bệnh phong, dịch hạch và trực khuẩn đường ruột. Hiện nay
chủ yếu dùng điều trị bệnh lao và phải phối hợp với một số Thuốc khác.
Tác dụng phụ nguy hiểm nhất khi dùng streptomycin là sốc
phản vệ. Nếu xử trí không kịp thời sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
Thứ đến, Thuốc có thể gây viêm thận, suy thận, viêm gan cấp tính nhưng ít gặp
hơn. Ngoài ra, cũng có thể gặp tổn thương tiền đình ở những người
dùng Thuốc
dẫn đến chóng mặt, mất thăng bằng khó hồi phục, nhất là ở người cao tuổi. Những
biểu hiện nhẹ hơn như tê môi, mệt mỏi, rối loạn tiêu hóa, mẩn ngứa… cũng thường
gặp khi bệnh nhân sử dụng streptomycin.
Isoniazid
Isoniazid hấp thu tốt qua đường uống, trực tràng và đường
tiêm. Thuốc có tác dụng tốt với mọi dạng lao cả trong và ngoài phổi, cả thể cấp
và thể mạn.
Tác dụng không mong muốn của isoniazid là viêm thần kinh
ngoại biên, ở thể nhẹ, bệnh nhân sẽ có cảm giác tê buồn trên da, nếu nặng, bệnh
nhân sẽ bị đau nhức. Ngoài ra, có thể gặp rối loạn tâm thần thể hưng cảm, tăng
cơn động kinh, co giật, hay gặp ở người suy dinh dưỡng, nghiện rượu và người có
tiền sử bệnh tâm thần. Để hạn chế tác dụng không mong muốn trên thần kinh, cần
bổ sung vitamin B6 trong thời gian điều trị.
Tác dụng phụ gây viêm gan của Thuốc thường xảy ra sau 4 - 8
tuần điều trị. Nguy cơ bị viêm gan tăng nếu sử dụng Thuốc hỗn hợp isoniazid với
rifampicin (rimactazid) do tác dụng cộng hưởng và người có tiền sử viêm gan,
người cao tuổi. Sự tăng men gan thấy xuất hiện vài tuần sau khi bắt đầu điều
trị lao khoảng 10 - 20% bệnh nhân dùng INH. Sự tăng men gan này thường ở mức
vừa phải và không liên quan dấu hiệu hay triệu chứng bệnh gan. Ở nhiều bệnh
nhân tăng men gan tiếp tục dùng INH vẫn chịu đựng được và có thể sau đó men gan
lại trở về gần bình thường. Nếu có tăng men gan, ngưng dùng INH thì men gan trở
về bình thường trong vòng 1 - 4 tuần. Tuy nhiên, vẫn có ít bệnh nhân khi dùng
INH có thể suy gan cấp (có thể xảy ra khoảng 0,1 - 2% bệnh nhân).
Bệnh nhân lớn hơn 50 tuổi có nhiều nguy cơ bị viêm gan khi
dùng INH, bệnh nhân trẻ em ít khi có tổn thương gan xảy ra. Bệnh nhân nữ bị ảnh
hưởng nhiều hơn nam. Khi điều trị, nên theo dõi kỹ để phát hiện viêm gan do INH
để ngưng điều trị kịp thời, tránh ảnh hưởng nặng cho gan. Nguy cơ gây độc cho
gan tăng lên ở người nghiện rượu khi dùng INH, đặc biệt khi dùng chung với
rifampicin trong phác đồ chống lao thì dường như tác dụng gây độc cho gan có vẻ
tăng lên.
Ngoài ra, isoniazid còn có thể gây rối loạn tâm thần, người
bệnh bị lên cơn động kinh. Thuốc cũng có thể gây rối loạn máu như giảm bạch cầu
hạt, giảm tiểu cầu, giảm hồng cầu, tăng bạch cầu ưa acid, đau khớp, sốt, phát
ban, sẩn ngứa, nhiều mụn trứng cá…
Do đó, Thuốc không được sử dụng cho bệnh nhân động kinh, rối
loạn tâm thần hưng cảm; bệnh nhân có bệnh lý gan, thận nặng hoặc các trường hợp
mẫn cảm với Thuốc.
Rifampicin
Rifamycin là kháng sinh tự nhiên được lấy từ môi trường nuôi
cấy streptomyces mediterian, có hoạt tính kháng sinh yếu. Rifampicin là kháng
sinh bán tổng hợp từ rifamycin B.
Rifampicin hấp thu tốt qua đường tiêu hóa, khả năng hấp thu
trên 90%. Rifampicin có tác dụng tốt với các chủng vi khuẩn mycobaccterium, đặc
biệt là vi khuẩn lao (mycobaccterium tuberculosis) và vi khuẩn phong
(mycobaccterium laprae). Một điều đáng chú ý là kháng Thuốc của các vi khuẩn lao
với rifampicin thường thấp hơn các vi khuẩn khác. Vì vậy, rifampicin được chỉ
định riêng cho điều trị nhiễm khuẩn lao và các nhiễm khuẩn nặng do vi khuẩn
nhạy cảm đã kháng nhiều Thuốc. Do đó, hiện nay, rifampicin chủ yếu dùng điều
trị mọi dạng lao (phối hợp với các Thuốc khác theo phác đồ); điều trị bệnh
phong (phối hợp Thuốc theo phác đồ);
Tuy nhiên, khi
dùng Thuốc kéo dài, có một số tác dụng không
mong muốn như: buồn nôn, nôn; viêm gan (nhất là người có tiền sử bệnh gan,
người nghiện rượu, cao tuổi hay khi phối hợp với các Thuốc cũng độc với gan).
Ngoài ra, có thể có các biểu hiện khác như đau đầu, mệt mỏi, ban da, thiếu máu,
giảm tiểu cầu.
Vì vậy, Thuốc không được dùng cho người suy gan nặng, rối
loạn chuyển hóa porphyrin, mẫn cảm với Thuốc. Thận trọng với người mang thai,
nhất là 3 tháng cuối của thai kỳ vì dễ gây xuất huyết.
Thuốc có thể gây viêm gan, men gan tăng, tăng bilirubin do
phân tử Thuốc lớn làm tắc các ống mật nhỏ. Trường hợp nặng có thể dẫn đến hôn
mê gan sau ít ngày điều trị.
Ngoài ra, Thuốc nhóm rifampicin có thể gây viêm thận như
hoại tử ống thận cấp hoặc suy thận cấp. Gây rối loạn hô hấp như khó thở, thở
rít, rối loạn tiêu hóa: đau thượng vị, nôn, tiêu chảy… Ảnh hưởng tới hệ thần
kinh như đau đầu, mất điều hòa, lẫn lộn, kém tập trung. Rối loạn máu như tan
hồng cầu gây thiếu máu, giảm tiểu cầu gây xuất huyết. Gây dị ứng: từ nặng là
sốc đến nhẹ là mẩn ngứa, phát ban, mày đay.
Pyrazinamid
Nhóm Thuốc này có thể gây viêm gan, tăng men gan. Tăng acid
uric dẫn đến cơn gút cấp, đau khớp. Ngoài ra, Thuốc có thể gây ăn kém, buồn
nôn, tiểu khó, sạm da…
Ethambutol
Phản ứng không mong muốn hay gặp của Thuốc là viêm thần kinh
thị giác, giảm thị lực, mù màu đỏ và xanh, nặng có thể gây mù vĩnh viễn. Tác
dụng không mong muốn khác: rối loạn tiêu hóa, dị ứng, sốt, đau khớp, nhức đầu,
chóng mặt. Hiếm gặp là cơn gút cấp do ethambutol làm giảm thải trừ acid uric.
Khi
dùng Thuốc điều trị bệnh lao, người bệnh cần hết sức
tuân thủ các hướng dẫn của bác sĩ về liều lượng Thuốc, thời gian uống Thuốc.
Nếu có những bất thường trong quá trình
dùng Thuốc, cần được khám bệnh và được
hướng dẫn điều trị phù hợp, không nên tự động thay đổi liều Thuốc hoặc tự bỏ
Thuốc.
ThS. Nguyễn Vân Anh