Để xác định chức năng buồng trứng của người phụ nữ ngoài thời gian có thai và để chẩn đoán nguyên nhân dậy thì sớm ở nữ.
Máu: xét nghiệm được thực hiện trên huyết thanh và huyết tương. Không nhất thiết yêu cầu bệnh nhân phải nhịn ăn trước khi lấy máu làm xét nghiệm. Nếu có thể được, yêu cầu bênh nhân ngừng dùng tất cả các Thu*c có thể làm thay đổi kết quả xét nghiệm.
Giá trị bình thường thay đổỉ tùy theo phòng xét nghiệm (liên quan với phương pháp định lượng, Thu*c thử và máy xét nghiệm).
+ Thời kỳ mãn kinh: < 340 pg/ml hay <110 pmol/L.
+ Thời kỳ trước dậy thì: < 20 pg/mL hay < 73 pmoI/L.
< 50 pg/mL hay <184 pmoỉ/L. .
+ Thời kỳ mãn kinh: < 20 µg/24h hay < 73 nmol/ngày.
< 15-40 µg/24h hay <55-147 nmol/ngày.
Phụ nữ không có thai: Estriol bắt đầu phát hiện được vào tuần mang thai thứ 9 và nồng độ này tăng lên dẩn theo tuổi thai tới một giá trị cuối cùng lên tới 15.000 ng/L hay 52.050 pmol/L
+ Ngoài thời gian mang thai: có thể thay đổi theo giai đoạn hoạt động Sinh d*c và chu kỳ kinh nguyệt:
+ Thời kỳ mãn kinh: < 30 ng/L hay < 11 pmol/L.
< 30 ng/L hay < 11 pmol/L
Estrogen có mặt trong cơ thể dưới vài dạng, bao gồm estradiol (E2), estriol (E3) và estron (El). Estrogen được sản xuất từ 3 nguồn là: vỏ thượng thận, buồng trứng và tinh hoàn. Xác định nồng độ estrogen có thể được sử dụng để đánh giá tình trạng của cả ba tuyến nội tiết nói trên.
Estriol (E3) được theo dõi trong khi có thai để đánh giá thai và chức năng rau thai. Estriol, cùng với alpha-fetoprotein (AFP) và human chorionic gonadotropin (HCG) được xác định như “bộ ba dấu chỉ sinh học” (the “triple marker”) giúp đánh giá nguy cơ thai bị các bất thường di truyền (như hội chứng Down) ở các phụ nữ có thai.
Estradial (hay E2) là dạng estrogen có hoạt lực mạnh-nhất, kích thích sự phát triển của nội mạc tử cung. Hormon này ức chế sự sản xuất hormon kích thích nang trứng (follicle- stimulating hormone [FSH]) và kích thích sản xuất hormon tạo hoàng thể (luteinizing hormone [LH]).
Estron (El): có thể do buồng trứng tiết ra trực tiếp (với một hàm lượng rất thấp) còn chủ yếu là do một chất tiền thân (Ă-4- androstenedion) chuyển đổi thành ở gan và các mô mỡ. Ở nữ giới sau giai đoạn mãn kinh, estron là estrogen chính. Chức năng của hormon này chưa hoàn toàn được biết rõ, song tăng nồng độ estron, khi không được progesteron đối kháng lại cho thấy là kết hợp với gia tăng nguy cơ bị ung thư nội mạc tử cung. Nồng độ estron có thể được sử dụng để giúp ích cho chẩn đoán khối u buồng trứng, hội chứng Turner, suy chức năng tuyến yên, vú to nam giới và mãn kinh.
Các Thu*c có thể làm tăng nồng độ estrogen: Ampicillin, cascara, diethyl stibestrol, estrogen, hydrochforothiazid, meprobamat, Thu*c ngừa thai uống, phenazopyridin, prochlorperazin, tetracydin.
Xét nghiệm này thường được sử dụng để xác định tình trạng mất kinh (amenorrhea) là do mãn kinh, có thai hay do một vấn đề nội khoa gây nên. Kết quả xét nghiệm nồng độ estradiol cẩn được phân tích theo chu kỳ kinh nguyệt của bệnh nhân và nồng độ FSH và LH.
Nồng độ estradiol rất cao đi kèm với mồng độ FSH và LH tăng cao: bệnh nhân có thể ở giai đoạn đinh rụng trứng.
Nồng độ estradiol rất thấp đi kèm với nồng độ FSH và LH tăng cao: bệnh nhân ở giai đoạn mãn kinh hay bị một bệnh lý buồng trứng.
Ở ở các bệnh nhân hiếm muộn, tiến hành định lượng nồng độ estradiol định kỳ trước khi tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm.
Định lượng nồng độ estradiol cũng có thể được sử dụng để theo dõi hiệu quả của điều trị hormon thay thế.
Nồng độ estradiol tăng cao ở nam giớỉ có tình trạng vú to (gynecomastie) có thể là bằng chứng gợi ý có bệnh lý khối u.
Theo dõi các thai nghén bệnh lý (Vd: thai kém phát triển [hypotrophie foetale], nguy cơ xảy thai, bệnh thận thai nghén [néphropathie gravidique]).
Xét nghiệm này cũng có thể được sử dụng để theo dõi tình trạng thai nghén ở bệnh nhân đái tháo đường.
Ung thư Sinh d*c ở phụ nữ để đánh giá khối u có thuộc loạỉ phụ thuộc hormon (hormonodépendance) hay không.
Hội chứng buồng trứng đa nang (polykystose ovarỉenne syndrome).