Thai nghén làm cơ thể mẹ có những thay đổi quan trọng nhằm thích nghi với điều kiện S*nh l* mới. Những thay đổi này liên quan đến các hormon, sự tiến triển của tử cung có thai và tăng nhu cầu của chuyển hoá.
Tử cung có thai đẩy cơ hoành lên cao 4cm cuối thai nghén. Đường kính truớc - sau ngực tăng 2cm, vòng đáy ngực tăng 5-7cm. Do thai phát triển thở bụng giảm và thở ngực tăng.
Tăng thông khí là thay đổi chính. Cuối thai nghén tăng 50%, chủ yếu là thể tích khí lưu thông và làm tăng thông khí phế năng (70%) giảm C02- Nhu cầu chuyển hoá tăng 14%. Tiêu thụ 02 tăng 21%.
Khí động mạch: giảm cơ2 nên kiềm hô hấp (thận bù) pH = 7,40 - 7,45. Paơ2 tăng vừa (106-108 mmHg) trong 3 tháng đầu, giảm nhẹ hoặc vẫn tăng cao trong 3 tháng cuối.
Đau làm tăng thông khí. Thông khí phút > 10 lít/phút ngoài cơn co và 231/phút lúc co tử cung. Tăng thông khí làm PaC02 giảm đến 10-15mmHg và H = 7,55 - 7,60 kiềm hô hấp làm đường cong phân ly Hb sang trái và co mạch TC-R gây giiỉm 02 thai. Khi hết đau, C02 giảm, bắt đầu giai doạn tạm thời giảm thông khí gáy giảm 02 ở mẹ (Pa02 < 70mmHg) làm ảnh hưởng đến thai.
Chuyển dạ kéo dài làm toan chuyển hoá ở mẹ, tích luỹ lactate có thể làm tăng suy thai trong trường hợp thiếu 02.
Đặt nội khí quản khó do phù nề, càng khó ở sản phụ bị tiền sản giật, béo bệu, chấn thương hoặc đặt nội khí quản mũi. Do có sung huyết nên cần nhẹ nhàng (ống bé hơn bình thường).
Thai đủ tháng giảm dung tích cặn chức năng (20%), tăng tiêu thụ 02 (21%) làm giảm dự trữ 02 dễ gây thiếu 02 lúc khởi mê và đặt nội khí quản, cần cho 02 100% trước khởi mê (hít sâu 02 100% 4 lần).
Do tăng thông khí, tăng nhạy cảm với Thu*c mê bốc hơi sẽ làm tăng tốc độ khởi mê. 2. Thay đổi về tuần hoàn
Thai nghén có nhiều tác động tim mạch nhằm bảo đảm nhu cầu chuyển hoá do phát triên của thai và chuấn bị cho cuộc đẻ.
Huyết sắc tố (Hb) < llgr/lOOml.
Mất máu S*nh l* đẻ đường dưới = 300-500ml, mất máu do mổ lấy thai 500-700ml. Nêu mât > lOOOml máu có triệu chứng giảm thể tích tuần hoàn cần xử trí.
Huyết áp tối đa giảm ngay tuần thứ 7 rồi tăng dần đến đủ tháng. Giữa tuần 24- 28 huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu giảm (8-15%).
Sức cản mạch máu ngoại biên giảm 20% và tăng cuối thai nghén (do phát triển tuần hoàn tử cung - rau, co mạch do hormon estrogen, progestin, prostaglandin tại chỗ.
Lưu lượng tử cung từ 50ml/phút đầu thai nghén tăng 500ml/phút lúc đủ tháng. Trọng lượng tử cung 40gr trước thai nghén tăng 1000g gần đủ tháng.
Triệu chứng: vã mồ hôi, buồn nôn, có thể rối loạn ý thức. Triệu chứng xuất hiện vài phút sau nằm ngửa. Đây là hội chứng chèn ép chủ dưới làm giảm máu tĩnh mạch trở về tim, làm giảm lưu lượng tim, hạ huyết áp sẽ làm giảm lưu lượng tử cung - rau gây suy thai.
Lưu lượng tim tăng dần do đau và stress. Đầu chuyển dạ, không giảm đau lưu lượng tim tăng 15-20% giữa các cơn co so với cuối thai nghén. Tăng 45-50% khi sổ thai. Mỗi cơn co còn tăng thêm 20-30% (do xâm nhập 250-300ml máu vào tuần hoàn mẹ) và giải phóng catecholamin.
Đẩy tử cung sang trái: nằm nghiêng trái hoặc kê gối dưới hông phải, hoặc để bàn nghiêng trái 15-20°, truyền dịch trước gây tê 500-500ml Ringer lactate.
Chèn ép tĩnh mạch chủ dưới làm giãn tĩnh mạch khoang sẽ giảm 40% dung tích khoang NMC (cần giảm 1/3 liều Thu*c tê).
Giảm hồng cầu, Hb, tăng bạch cầu (7.200-10.300/ml) tăng đa nhân trung tính, lympho tăng 10%. Tỉ lệ lympho T và B không đổi.
Tiểu cầu ít thay đổi, 7% tiểu cầu < 150.000mm3 trong đó có 5% < 100.000mm3.
Độ nhớt máu giảm đến tuần 30 sau đó tăng ít đến cuối thai nghén. Tăng íibrino- gen —>• tăng tốc độ lắng máu hồng cầu.
Áp lực thẩm thấu giảm song song giảm albumin ==> nguy cơ phù phổi nhất là bệnh lý có giảm áp lực thẩm thấu, tăng áp lực mao mạch phổi và tính thấm mao mạch phối bị phá huỷ.
Trương lực cơ thắt dưới thực quản giảm, tư thế dạ dày làm mở góc tâm phình vị sẽ gây trào ngược (80%) có thể viêm thực quản.
Đủ tháng, áp lực dạ dày tăng do tăng áp lực ổ bụng (tử cung, tư thế phụ khoa, tư thê Trendelenbourg, đè vào bụng v.v..).
Nhiệm vụ chính của thận: duy trì huyết áp, thăng bằng nước - điện giải, đào thải chất chuyển hoá azot.
3 tháng đầu thai nghén, progesteron làm giãn đài bể thận, niệu quản. Tử cung to dần dễ gây nhiễm trùng ngược dòng.
Tái hấp thu ống thận (nước - điện giải) tăng để cân bằng muối - nước. Glucose niệu tăng ít. creatin và ure máu giảm, acid uric tăng.
Cân bằng muối: do tăng lọc cầu thận, nhu cầu thai, tác dụng thải của progestron, tăng các yếu tố như tăng tiết aldosteron, estrogen, tăng hoạt động renin - angiotensin tạo điều kiện ứ đọng muối - nước.
Lưu lượng gan ít thay đổi, BSP giảm trung bình, bilirubin và transaminase tăng không ổn định, phosphatase kiềm tăng dần, pseudocholinestherase giảm dần khoảng 20% (không gây hậu quả lâm sàng). Do giảm neoglucogen nên đường máu giảm lúc đói ngay cuối 3 tháng đầu thai nghén trong khi insulin tăng ở giai đoạn 2 của thai nghén do tăng glucid liên quan đến kháng insulin do rau và tăng thể cetonic.
Mọi sự tăng glucose ở mẹ (đái đường, truyền nhiều đường) đều gây giảm glu- cose và toan chuyển hoá ở trẻ sơ sinh do tăng insulin ở thai, vì vậy không được truyền nhiều đường trong sản khoa.
Progestron gây ngủ làm tăng tác dụng Thu*c mê tĩnh mạch, tăng beta endor- phin cũng có thể góp phần vào tác dụng này.
Giảm liều Thu*c tê do giảm dung tích khoang ngoài màng cứng và dưới màng nhện, tăng nhạy cảm của thần kinh với Thu*c tê.
Trong những trường hợp không có bệnh lý của người mẹ thì gây mê toàn thể được thực hiện khi người mẹ từ chối phương pháp gây tê vùng.
Trào ngược dịch dạ dày vào phổi (hội chứng Mendelson). Nhiều năm trước đây, tai biến này chiếm tỉ lệ Tu vong cao nhất trong gây mê sản khoa do các phân tử thức ăn trào ngược vào đường thỏ, thường gặp lúc khởi mê gây ngạt thở hoặc do dịch vị dạ dày có độ pH thấp (2,5) sẽ gây viêm phổi và phổi sốc sẽ làm ch*t bệnh nhân. Nhưng ngày nay, nhờ áp dụng một số biện pháp dự phòng nên nguyên nhân Tu vong mẹ giảm 60%. Đe khắc phục hội chứng này, người ta sử dụng một số loại dung dịch nitrat natri 0,3M kết hợp với cimetidin hoặc ranitidin cho bệnh nhân uống 15-30 phút khởi mê, áp dụng thủ thuật Sellick từ lúc bắt đầu bệnh nhân mất ý thức cho đến lúc bơm bóng của ống nội khí quản.
Chúng ta phải luôn coi các sản phụ có dạ dày đầy mặc dù bữa ăn đã cách xa cuộc mô > 4 giờ. Biện pháp đặt sonde dạ dày không hoàn toàn có hiệu quả nhưng cũng có một số lợi ích làm giảm áp lực dạ dày do nôn, do hút bớt dịch.
Đối với các sản phụ, do khối tử cung đẩy lên nên dạ dày có xu hướng nằm ngang, mặt khác do Thu*c mê ta sử dụng làm thay đổi góc Hiss của dạ dày, vả lại khi dùng một số Thu*c tiền mê như atropin hay benzodiazepin có thể làm giảm trương lực cơ thắt dưới thực quản cũng tạo thuận lợi cho trào ngược. Trong trường hợp hút dạ dày thì phải rút sonde trước khi đặt nội khí quản.
Người ta còn khuyên dùng phương pháp tê sụn giáp nhẫn và hầu họng để đặt nội khí quản trước khi tiêm Thu*c mê. Phương pháp này thì khó cho những người gây mê chưa có kinh nghiệm.
Đặt nội khí quản khó: do rất nhiều nguyên nhân gây ra hoặc do cấu tạo giải phẫu hoặc do những sang chấn tổn thương cũ, vả lại khi có thai, sản phụ thường béo và nhất là phù do nhiễm độc thai nghén, vì vậy chúng ta phải chuẩn bị thật kỹ, kể cả người phụ gây mê để có thể tránh được các tai biến xảy ra.
Do thay đổi về S*nh l* hô hấp nên sự chịu đựng thiếu oxy của mẹ và thai nhi rất kém, nếu chúng ta kéo dài thời gian đặt nội khí quản có thế gây Tu vong cho mẹ và con. Vì vậy chúng ta phải bảo đảm một số nguyên tắc sau:
Dùng giãn cơ khử cực để đặt nội khí quản, sau khi đặt được nội khí quản có thể dùng giãn cơ không khử cực.
Theo các tác giả nưóc ngoài thì chỉ cần cho dung dịch chống toan hoặc nếu mổ có chuẩn bị thì cho benzodiazepin: oxazepam (Seresta); lorazepam (Temesta) hoặc temazepam (Normison).
Cho bệnh nhân uống citrat natri 0,3M 15ml và cimetidin 200mg hoặc ranitidin 15-30 phút trước khởi mê.
Tiêm succinylcholin (suxaméthonium) l-l,5mg/kg tiếp tục hô hấp bằng masque với oxy 100% nhưng không được hô hấp áp lực quá cao sẽ làm tăng áp lực dạ dày và co mạch tử cung.
Đặt nội khí quản sau 45 giây - 1 phút tiêm suxamethonium, đặt nội khí quản phải nhẹ nhàng nhưng khẩn trương bằng sonde số 7 (sonde nhỏ hơn người không có thai). Sau đặt sonde nội khí quản cố định và bơm bóng nội khí quản, phải áp dụng thủ thuật Sellick cho tới khi bơm bóng nội khí quản.
Tiêm tiếp pancururonium (Pavulon) hoặc vecuronium (Norcuron) 0,04mg/kg hoặc tracrium 0,2mg/kg (trừ trường hợp bệnh nhân có tiền sử dị úng).
Hô hấp nhân tạo bằng máy với Fi02 = 1 và áp lực thở 30cmH2O. Với quá trình sử dụng Thu*c như trên, chúng tôi không phải tiêm thêm một loại Thu*c nào khác và tuyệt đối không được tiêm thêm thiopental khi chưa lấy thai ra.
Thời gian từ lúc khởi mê đến lúc lấy thai ra từ 8-10 phút theo các tác giả là lý tưởng nhât đê bảo đảm mẹ yên tĩnh và con ra không bị ức chế.
Thời gian từ lúc rạch cơ tử cung đến lúc lấy thai ra (cặp rốn) càng nhanh càng tốt. Nếu quá 180 giây thì chỉ số Apgar thường < 7 (không tốt).
Sau khi lây thai ra, cuộc mê sẽ trở lại bình thường như những cuộc mỗ khác, chúng ta dùng thiopental, Thu*c giảm đau họ morphin như íentanyl 2mCg/kg hoặc alíentanil 8mCg/kg.
Trước khi lấy thai ra, tuyệt đối không truyền dung dịch glucose ưu trương, ngay cả glucose đang trương cũng phải hạn chế.
Phải phục hồi hô hấp nhưng bảo đảm giảm đau cho bệnh nhân khi bắt đầu khâu phúc mạc thành bụng. Tốt nhất là cho hô hấp trở lại tự nhiên mà không phải dùng chất đối kháng curare. Theo kinh nghiệm của chúng tôi thì phục hồi hô hấp tốt nhất là vấn đề cơ bản, mặc dù bệnh nhân chưa tỉnh, chỉ rút ống nội khí quản khi hô hấp tốt và bệnh nhân mở mắt há mồm theo yêu cầu của thầy Thu*c.
Sau mổ, nếu bệnh nhân đau có thể cho các loại Thu*c giảm đau nhóm paracetamol như: prodaíalgan, di-antanvic hoặc ngay cả íentanyl liều lmCg/kg.
Đây là kỹ thuật được áp dụng chủ yếu trong gây mê, gây tê sản khoa trên thế giới cũng như Viện bảo vệ bà mẹ trẻ sơ sinh.
Ngày nay hai phương pháp gây tê vùng được áp dụng nhiều nhất là tê ngoài màng cứng và tê tủy sống. Mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điếm riêng. Nhưng tê ngoài màng cứng vẫn là phương pháp lý tưởng trong mổ lấy thai. Đương nhiên để thực hiện tốt phương pháp này cần phải có kinh nghiệm và kỹ thuật tốt.
Tụt huyết áp trong mổ nhất là tê tủy sống sẽ làm giảm lưu lượng máu tử cung - rau làm cho sự cung cấp oxy cho thai giảm, có thế dẫn đến suy thai cấp.
Dị ứng vói Thu*c tê nhất là loại ester: cocain, procain, tetracain các loại thuộc nhóm amid ít dị ứng hơn: lidocain, bupivicain (Marcaine), mepivicain (Carbocaine), etidocain (Duranest), prilocain (Citanest)...
2 ống ephedrin trong 1 bơm tiêm lOml (chú ý không được truyền glucose ưu trương hoặc truyền nhiều glucose đẳng trương khi chưa lấy thai ra).
Chọc kim Tuohy 18G theo kỹ thuật mất sức cản dịch (tốt nhất là Thu*c tê làm test - lidocain 2% adrenalin 1/200.000).
Chờ sau khi tiêm liều test 5 phút xem có tác dụng trên mạch của người mẹ (mạch chậm, huyết áp tăng) hoặc bệnh nhân có cảm giác tê (do Thu*c tê vào tuỷ sống) hay không ?
Tiêm Thu*c tê từng liều nhỏ (nếu đặt catheter) 4-5ml có adrenalin 1/200.000 (nếu đặt catheter hoặc tiêm một liều duy nhất (15-16ml) vối tống cộng cả liều test là 20ml.
< l,5m: 8mg
l,5m < l,7m: 10mg
Đặt ngay bệnh nhân nằm nghiêng trái nhẹ (15°) hoặc kê gối dưới hông phải đầu kê cao nhẹ bằng một cái gối.
Ngoài marcain 0,5% hyperbare người ta còn sử dụng lidocain 5%, prilocain 5%, mepivacain 5%, tetracain 0,5% để gây tê tuỷ sống (bảng 1).
Nếu huyết áp tối đa giảm > 20% hoặc < lOOmmHg: cho bệnh nhân nằm nghiêng trái và tăng lưu lượng truyền tĩnh mạch. Neu không có kết quả thì tiêm ephedrin tĩnh mạch chậm.
Trường hợp giảm đau không đủ để mỗ, nếu tê tủy sống cần chuyển thành mê toàn thể, nếu tê ngoài màng cứng có đặt catheter thì tiêm thêm 5ml bupivicain 0,5% hoặc 50pg íentanyl qua catheter.
Thu*c |
Nồng độ (%) |
Thời gian gây tê mổ -> (phut) |
Thời gian tác dụng (phút) |
|
Phong bế vận động |
Phong bế cảm giác |
|||
Lidocain |
5 |
3-5 |
30-75 |
60-90 |
Prilocain |
5 |
3-5 |
90-120 |
90-150 |
Mepivacain |
5 |
5-8 |
90-120 |
120-180 |
Bupivacain |
0,5 |
5-8 |
90-120 |
180 |
Thu*c |
Nồng độ |
Thời gian gây tê có tác dụng (phút) |
Thời gian tác dụng (phút) |
||
Bắt dầu |
Hoàn toàn |
Phong bế vận động |
Phong bế cảm giác |
||
Mepivacain |
2 |
6 |
15 |
60 |
115 15 |
Prilocain |
2 |
7 |
15 |
100 ±40 |
|
Lidocain |
2 |
5 |
15 |
60 |
100 ±80 |
Bupivacain |
0,5 |
5-8 |
18 |
160 |
200 ± 80 |
Etidocain |
1 |
4 |
10 |
360 |
170 ±60 |
Ropivacain |
0,50,751 |
2-3 |
30 |
138180300 |
168 ±60180 ±30180 ±30 |
Morphin |
Pethidin (Dolargan) |
Fentanyl |
TêTS: 0,25-1 mg/1 lẩn Tê NMC: 0,05- 0,1 mg/kg |
Tê TS: 1mg/kg/1 lần |
1mCg/kg: NMC |
Kỗt hợp Thu*c tê để:Tăng giảm đau trong mổ (±)Giảm đau sau mổ |
Sau 3 - 5 phút có tác dụng giảm đauThời gian giảm đau: 70 phút |
Kết hợp với Thu*c tê để:- Tăng giảm đau trong mổ Giảm đau sau mổ |
Có thể: buồn nôn, nôn, ngứa |
Buồn nôn, nôn, ngứa ( ) |
Buồn nôn, nôn, ngứa (±) |
Nguy cơ ức chế hô hấp 1% |
Không ức chế hô hâp mẹ |
Không ức chế hô hấp thứ phát |
Không ảnh hưởng sơ sinh |
Không thấy ảnh hưởng sơ sinh |
Không tác dụng trên con |
Cũng như trong gây mê chung, có rất nhiều tai biến thường gặp trong các giai đoạn của gây mê. Trong sản khoa, các tai biến này cũng đều có thế xảy ra. Trong phạm vi bài này, chúng ta sẽ nghiên cứu một số tai biến đặc trưng thường gặp trong sản khoa và có nguy cơ Tu vong mẹ, thai nhi và sơ sinh.
Tư thế dạ dày thay đổi, góc Hiss mở do Thu*c mê, trương lực cơ thắt dưới thực quản giảm do dùng pethidin, atropin, áp lực dạ dày tăng do dùng giãn cơ khử cực khi đặt nội khí quản.
Hậu quả là gây tắc đường thở do các phần tử thức ăn, phù phổi tổn thương có thề gay bội nhiễm, nó càng nặng hơn khi pH dạ dày < 2,5 và lượng dịch hít > 25ml.
Citrat natri 0,3M là loại dung dịch tác dụng nhanh phù hợp với cấp cứu. Liều lượng dùng 30ml uống ngay khi có chỉ định mổ. Thời gian tác dụng ngắn (45 phút) nếu mổ kéo dài thì tác dụng bị hạn chế.
Các Thu*c recepteur H2 của histamin bao gồm cimetidin và ranitidin. Hai loại này có thời gian tác dụng dài nhưng bắt đầu có tác dụng chậm (hạn chế trong cấp cứu). Có thể dùng tagamet loại sủi, tác dụng nhanh hơn. Thu*c này phải cho một cách có hệ thống ngay cả khi gây tê vùng.
Kiểm soát chất chứa dạ dày: metoclopramid (Primperan) làm giảm chất chứa trong dạ dày, làm tăng trương lực cơ thắt dưới thực quản, chống nôn nhưng tác dụng chậm. Liều lượng lOmg tiêm tĩnh mạch. Thời gian làm rỗng dạ dày là 20 phút, nhưng cho Thu*c 5 phút trước gây mê làm mất tác dụng giãn cơ thắt dưới thực quản do atropin và pethidin. Nó làm rỗng dạ dày ngay cả khi sử dụng morphin.
Thời hạn < 5 phút: Citrat natri 0,3M 30ml uống.
Đặt nội khí quản nhanh: cũng là một biện pháp hạn chế hội chứng này. Muốn vậy cần gây mê đủ sâu và sử dụng giãn cơ khử cực (thời gian < 1 phút).
Những loại giãn cơ này hay gây dị ứng và làm tăng áp lực dạ dày. Có thể áp dụng phương pháp tiền Curare.
Tăng đường kính trước sau, vú to, phù mao mạch niêm mạc (nhất là nhiễm độc thai nghén) ngay cả thủ thuật Sellick cũng làm biến dạng.
Nêu như trước đây tỉ lệ Tu vong do hội chứng Mendelson cao thì ngày nay đặt nội khí quản khó, tỉ lệ Tu vong lại cao hơn.
Rất hay gặp trong sản khoa hoặc dữ dội hoặc kín đáo. Nó do tử cung có thai đè vào tĩnh mạch chủ dưới (nằm ngửa) làm giảm máu tĩnh mạch về tim và lưu lượng tim giảm gây hạ huyết áp và làm giảm tưới máu rau gây ra suy thai cấp.
Hạ huyết áp trong sản khoa cũng rất thường gặp, nhất là nguyên nhân chảy máu và càng thuận lợi hơn khi có hội chứng chèn ép chủ, gây tê vùng.
Hậu quả hạ huyết áp có thể gây Tu vong cho mẹ và cho thai nhi. Hạ huyết áp càng nhiều và kéo dài càng gây hậu quả nghiêm trọng.
Người ta gọi là hạ huyết áp khi huyết áp tối đa < lOOmmHg hoặc hạ > 30% so với huyết áp trước gây mê.
Gây mê cho những trường hợp chảy máu bằng các Thu*c không gây ức chế cơ tim và giãn mạch (nên dùng Ketamin, Etomidat) và dùng giảm đau Fentanyl.
Nếu gây tê vùng cần truyền 10-20ml/kg dung dịch Ringer lactate trước gây tê, sử dụng ephedrin một cách hệ thống trước gây tê vùng và không nên dùng quá 50mg vì dễ gây ức chế cơ tim. Nếu dùng ephedrin không hiệu quả có thế dùng adrenalin.
Các dấu hiệu thần kinh là triệu chứng sớm nhất của giảm lưu lượng máu não. Nếu điều trị muộn hoặc không đúng thì có thể ngừng tuần hoàn và làm nặng thêm tổn thương thần kinh.
Trong sản khoa hay gây tê vùng, nếu Thu*c tê phong bế vận động quá rộng nhất là những người có suy hô hấp mãn hoặc dùng nhiều Thu*c an thần có thể xảy ra suy hô hấp sớm. Suy hô hấp muộn có thể xảy ra khi gây tê tuỷ sống có kết hợp loại morphin.
Thường gặp trong gây tê tuỷ sống do thoát nước não tuỷ ra khoang NMC (chỗ chọc) làm giảm áp lực thứ phát trong tuỷ sống gây co kéo não - màng não.
Đau đâu thường liên quan đến tư thế ngồi, đứng, ánh sáng mạnh, tiếng ồn và đau đầu đi kèm với giảm thính lực và thị lực.
Chọc kim to: 1-15% với kim số 25. Nếu kim 27 thì tỉ lệ đau đầu 0,5-1%. Nếu kim 29 thì không thấy đau đầu. Dùng kim đầu bút chì rất ít đau đầu.
Dạng nặng: áp dụng phương pháp "Blood pacth": lấy máu tĩnh mạch bệnh nhân tiêm vào khoang NMC. Phương pháp này có hiệu quả 70-98%.
Cũng thường gặp trong gây tê vùng do hạ huyết áp làm giảm lưu lượng máu não gây thiếu oxy vỏ não sẽ kích thích vùng Postrema và gây nôn.
Hạn chế tác động mạnh trên tử cung và phúc mạc vì tác động mạnh trên tử cung và phúc mạc sẽ ảnh hưởng thần kinh phế vị làm giảm tần số tim và lưu lượng tim.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
bài giảng gây mê gây tê cho mổ lấy thai dấu hiệu điều trị gây mê gây tê mổ lấy thai sản phụ triệu chứng