Tam thất là vị Thu*c quý có nhiều tác dụng trong phòng, chữa bệnh. Thời xa xưa, tam thất đã được nói đến trong cuốn “Lôi công dược đối” của Từ Chi Tài thời Bắc Tề.
Đến thời nhà Minh 1338, trong cuốn: Bản thảo cương mục, Lý Thời Trân xếp tam thất vào bộ Thu*c lý, lợi, huyết dược. Mục Thu*c: chỉ huyết, và áp dụng cho đến ngày nay.Theo tài liệu của Trung Quốc, tam thất có nhiều tên gọi: Phật thủ sơn thất. Vì củ tam thất mọc hoang trên núi, có nhiều nhánh giống hình quả phật thủ. Huyết sâm: Là vị Thu*c, có tính chất đặc biệt trong điều trị các bệnh về huyết, không có vị Thu*c nào sánh được, nên quý như sâm. Đó là khi máu chảy, thì nó cầm lại, khi có cục máu đông, thì nó làm tan đi. Là vị Thu*c tốt, khi còn mọc hoang rất hiếm nên có tên: Kim bất hoán, có vàng cũng không thể đổi. Cách đây 400 năm, người vùng Châu Văn Sơn, Vân Nam, Trung Quốc, đã biết trồng tam thất, nên có tên gọi điền tam thất. Sau đó được người Tứ Xuyên, Trung Quốc, di thực từ Vân Nam về trồng, nên có tên gọi xuyên tam thất. Vì là vị Thu*c có nhiều tác dụng, nên người ta đặt cho cái tên là: sâm tam thất, thổ tam thất. Rồi các tên như: trấn thất, hà thất, quảng thất, vân vân, là tên gọi của địa phương trồng tam thất. Ở Việt Nam, tam thất mọc hoang, trên núi rừng các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, vân vân.Theo tài liệu của y học phương Đông, tam thất có vị ngọt hơi đắng, tính ôn. Vào hai kinh can và vị, có tác dụng: chỉ huyết, tán ứ, tiêu thũng, giảm đau. Điều trị các bộ phận trên cơ thể xuất huyết, các vết ứ huyết do chấn thương, các vết thương lâu ngày không khỏi, và các chứng bệnh ứ huyết khác như: sau khi sinh, phụ nữ bị ứ huyết trong tử cung, đau tức bụng dưới, băng huyết, thổ huyết, lỵ ra máu, các vết tụ máu trên cơ thể, vân vân.
Cách chọn tam thất tốt xấu: Nếu loại mọc hoang trên rừng là củ, chắc có màu xám đen, cầm nặng tay là loại tốt, hiện nay không còn loại này nữa. Hiện chỉ có điền tam thất, cắt ra có màu xanh xám, rắn chắc là loại tốt. Loại da nhăn nheo, cắt ra có màu trắng xốp hoặc màu vàng xốp, là loại xấu. Bột tam thất bỏ lên vết máu đã đông, một lúc sau vết máu tan đi là loại tốt.
Tam thất điều trị sốt xuất huyết và một số chứng bệnh khác: Năm 1986, khi tôi đang công tác tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô, nay là Bệnh viện Hữu Nghị, có bệnh nhân thuộc đoàn 8 địa chất, đi thăm dò tìm mỏ, có lần vào một vùng mỏ có phóng xạ, anh bị nhiễm phóng xạ chảy máu cam, máu chân răng, nôn ra máu, đại tiện ra máu, vào viện chẩn đoán không ra nguyên nhân. Theo yêu cầu của lãnh đạo bệnh viện, kết hợp Đông Tây y để cứu bệnh nhân. Tôi đã dùng tam thất bột, sắc cách thủy, ngày uống 5 gam, sau hai ngày điều trị, bệnh nhân hết chảy máu. Sau 7 ngày bệnh nhân lành hẳn. Khi lành bệnh, bệnh nhân hỏi tôi, anh cho tôi uống Thu*c gì mà tốt vậy. Tôi trả lời: Tôi cho anh uống nước sắc tam thất. Tôi nói tiếp: Trong kho bệnh viện chỉ còn 300 gam, để dùng cho một số bệnh nhân đặc biệt, tôi đánh liều lấy 100 gam để cứu anh. Anh cười nói: tôi sẽ biếu anh vài kg. Khi ra viện, anh đến cảm ơn tôi đã cứu anh và biếu tôi 2kg tam thất, củ bé nhưng rất chắc. Anh nói: loại này chúng tôi đi khảo sát tìm mỏ thấy mọc hoang ở một số tỉnh phía Bắc rất nhiều. Đồng bào các dân tộc thiểu số bảo là tam thất, tôi gọi điện về nói với anh em: Tam thất là vị Thu*c quý mà Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô đã cứu mạng anh, nên anh em trong đoàn đi nhặt về biếu tôi để chữa bệnh. Tôi biếu bệnh viện để cứu người khác khi có bệnh như tôi. Số tam thất ấy, sau đó tôi đã dùng điều trị cho hơn 10 bệnh nhân sốt xuất huyết. Có những bệnh nhân đã chảy máu cam, tiểu tiện ra máu, phụ nữ chưa đến ngày hành kinh, nhưng vẫn ra máu, đó là con gái một cán bộ cao cấp và một số nhân viên của bệnh viện. Sau đó, tôi đã hướng dẫn, một số bà mẹ có con sốt xuất huyết điều trị cũng khỏi. Ngoài ra, đã điều trị cho một số bệnh nhân chảy máu chân răng không cầm, chảy máu cam, đại tiện ra máu do trĩ nội, rong kinh, vân vân. Một số trường hợp, bệnh nhân đặt stent mạch vành tim, uống Thu*c chống đông Tây y bị phản ứng, tôi hướng dẫn dùng tam thất bột, uống ngày 3 gam vào buổi sáng, lúc đói kết quả rất tốt. Cách dùng: đối với sốt xuất huyết, người lớn ngày uống 10 gam tam thất bột sắc cách thủy, chia 2 lần uống trong ngày, trước khi ăn sáng và ăn tối, uống 3 ngày bệnh giảm, uống 7 ngày bệnh khỏi hẳn. Trẻ em dưới 3 tuổi, cho uống 3 gam trên ngày. Nếu mẹ uống, cho con bú, dùng liều của người lớn. Trẻ em 4 đến 12 tuổi, uống 5 gam trên ngày. Trên 12 tuổi, uống liều lượng như người lớn.Sau điều trị các trường hợp sốt xuất huyết, Giáo sư: Phạm Song, lúc đó là Trưởng khoa Bệnh truyền nhiễm bệnh viện, đánh giá dùng tam thất
điều trị sốt xuất huyết có kết quả tốt. Tháng 7 vừa rồi, có bệnh nhân hơn 1 năm tuổi, bệnh viện Tây y chẩn đoán sốt xuất huyết, tôi hướng dẫn mẹ uống tam thất cho con bú, sau 3 ngày, cháu hết sốt và hết các nốt xuất huyết dưới da.
Thầy Thu*c nhân dân, bác sĩ: Nguyễn Xuân Hướng.