Tâm linh hôm nay

Lực học Thích Ca đối chiếu với Cơ học Newton và Thuyết Tương đối của Einstein

Lực học Newton và Einstein có thể đem lại cuộc sống tiện nghi cho con người bằng những phát minh sáng chế rất tài tình, chẳng hạn nhà cửa, xe cộ, máy bay, tàu thủy, máy vi tính, điện thoại di động…Nhưng tôi nghĩ chỉ có lực học Thích Ca mới đem lại cuộc sống giác ngộ, mưu cầu sự an lạc và hòa bình đích thực cho nhân loại và muôn loài chúng sinh một cách vững chắc

Lực học là môn nghiên cứu tác động của lực đối với vật chất, thuật ngữ thông dụng gọi là Cơ học (Mechanics) hoặc có khi gọi là Động lực học (Dynamics). Cơ học cổ điển của Newton, ta tạm gọi là cấp độ I của lực học, hay lực học Newton, chủ yếu nghiên cứu tác dụng của lực đối với cố thể vật chất. Cố thể vật chất là vật chất ở thể rắn có một khối lượng đủ lớn để con người có thể cảm nhận được, còn đối với vật chất cực vi như nguyên tử (atom) hay các hạt hạ nguyên tử (subatomic particles) thì Newton chưa có điều kiện nghiên cứu tới. Đối với các hạt vật chất cực vi này thì có môn Cơ học lượng tử (Quantum mechanics) nghiên cứu chúng. Cơ học lượng tử có 3 vấn đề khác hẳn cơ học cổ điển:

1. Lượng tử là một khái niệm mới về vật chất chỉ mới được quan niệm từ đầu thế kỷ 20. Trước kia người ta cho rằng ánh sáng hay năng lượng là một thực thể liên lục nhưng Max Planck khám phá rằng ánh sáng hay năng lượng cũng chỉ là tập hợp các lượng tử rời rạc chứ không phải liên tục. Cơ học lượng tử được thành lập chủ yếu bởi các nhà khoa học sau : Max Planck, Albert Einstein, Niels Bohr, Werner Heisenberg, Erwin Schrödinger, Max Born, John Von Neumann, Paul Dirac, Wolfgang Pauli, De Broglie… Trong các vị này, Einstein là người nổi tiếng nhất nên xin lấy tên ông làm đại diện cho cấp độ II của lực học, tức là lực học Einstein.

2. Lưỡng tính sóng hạt của ánh sáng và năng lượng. Người ta thường quan niệm rằng hạt là vật chất, còn sóng là sự dao động của vật chất chứ bản thân sóng không phải là vật chất. Nhưng với lưỡng tính sóng hạt, sóng cũng là vật chất nhưng ở dạng năng lượng. Năng lượng đó không liên tục mà rời rạc cho nên từng hạt năng lượng gọi là lượng tử (quantum). Lưỡng tính sóng hạt do nhà khoa học Pháp Louis de Broglie khám phá và trình bày trong tác phẩm Recherches sur la théorie des quanta (Nghiên cứu về lý thuyết lượng tử). Nghiên cứu này đem đến cho ông giải Nobel Vật lý năm 1929.

3. Hiện tượng rối lượng tử (Quantum Entanglement) là một hiện tượng vô cùng khó hiểu đối với các nhà khoa học. Thiên nhiên có thể tạo ra nhiều sự vật đồng thời ở nhiều vị trí khác nhau nhưng các sự vật đó quan hệ chặt chẽ với nhau, khiến người ta không thể hiểu được rằng đó là một sự vật duy nhất xuất hiện đồng thời tại nhiều vị trí khác nhau trong không gian, hay nhiều sự vật giống hệt nhau xuất hiện đồng thời tại nhiều vị trí, nhưng liên kết với nhau chặt chẽ, khi một sự vật bị tác động thì tất cả các sự vật kia bị tác động tức thời và y hệt. Nếu cho rằng khi tác động lên một vật, thông tin sẽ được truyền đến các vật kia, thì tốc độ truyền sẽ là con số không tưởng, gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng. Sinh thời Einstein bối rối trước hiện tượng này, ông gọi đó là tác động ma quái từ xa (Spooky action at a distance). Hiện tượng rối lượng tử phải dẫn đến kết luận chắc chắn rằng số lượng, không gian, thời gian đều không có thực, đó chỉ là sự biến hiện của tâm thức. Tác động tức thời không mất chút thời gian nào là vì không gian không có thực. Một sự vật xuất hiện đồng thời ở nhiều vị trí khác nhau là vì số lượng không có thực, số lượng một hay nhiều là do tâm thức cảm nhận. Không gian không có thực thì thời gian cũng không có thực, bởi vì thời gian là một chiều kích của không gian. Đây không phải chỉ là lý thuyết suông mà ngày nay đã có ứng dụng. Mạng internet cho phép chúng ta có thể đồng thời nói chuyện, gặp gỡ cùng lúc với bạn bè, người thân ở nhiều nơi xa xôi trên thế giới vì khoảng cách không gian trên địa cầu đã bị triệt tiêu với thông tin truyền đi bằng vận tốc ánh sáng. Giả sử chúng ta có thể đạt tới tốc độ của ý niệm, thì khoảng cách không gian vũ trụ hàng tỉ quang niên không còn nữa, chỉ một niệm là đến. Lực học trong nền tảng vận tốc vô hạn, ta tạm gọi là cấp độ III của lực học hay là lực học Thích Ca vì những khái niệm này do Đức Phật Thích Ca khai thị.


Trước khi đi sâu vào từng cấp độ lực học, ta hãy tự hỏi tại sao lực học có tầm quan trọng rất lớn đối với vũ trụ và thế giới. Xin liệt kê mấy ý kiến như sau:

a) Lực học quan trọng vì thế giới cấu tạo bằng những phần tử rời rạc như hạt quark, electron. Phải có lực kết nối chúng lại với nhau. Ba hạt quark (2up+1down) kết hợp thành hạt proton. Ba hạt khác (1up+2down) kết hợp thành hạt neutron. Proton và neutron tạo thành hạt nhân nguyên tử. Hạt nhân nguyên tử kết hợp với electron tạo thành nguyên tử vật chất. Nguyên tử kết nối với nhau thành phân tử hoặc thành cố thể vật chất. Phân tử hữu cơ kết nối với nhau thành chất sống, tế bào sinh vật. Tế bào kết nối với nhau thành sinh vật, con người. Ở tầm vĩ mô lực hấp dẫn liên kết mặt trời và các hành tinh thành thái dương hệ. Các thái dương hệ lại xoay quanh dải ngân hà, các thiên hà tương tác với nhau trong vũ trụ bao la.

b) Trong vũ trụ, chỉ có 4 loại lực tương tác cơ bản, đó là : Lực hấp dẫn (force de gravité, gravitation) là lực hút giữa vật chất với nhau, có tác dụng ở mặt vĩ mô. Lực điện từ (force électromagnétique, electromagnetism) tạo ra từ trường trong đó điện tích cùng dấu thì đẩy nhau, khác dấu thì hút nhau. Lực tương tác mạnh (force interactive forte, the strong interaction) là lực liên kết các hạt quark tạo ra hạt proton và hạt neutron, tạo ra sự vững bền của hạt nhân nguyên tử và giữ cho electron chuyển động theo quỹ đạo nhất định. Lực tương tác yếu (force interactive faible, the weak interaction) tạo ra hiện tượng phóng xạ của các nguyên tố nặng (như uranium) tức là giải phóng một số proton và neutron khiến nguyên tử dần dần bị phân rã. Lực điện từ và lực tương tác yếu, từ năm 1983 khi khám phá hạt tương tác boson W và boson Z thì có thể gom thành một lực chung gọi là lực tương tác điện yếu (interaction of weak electromagnetic fields)

c) Thành phần cơ bản nhất của vật chất là lượng tử thật ra chỉ là hạt ảo, không có thật, lượng tử chỉ là khái niệm trừu tượng. Nhưng lượng tử được lực kết nối thành các hạt cụ thể như quark, electron. Ta có thể thấy, cảm nhận được chúng, cũng như cảm nhận nguyên tử. Thật ra nguyên tử không có thật, nguyên tử chỉ là giả danh, nguyên tử chỉ là mối quan hệ tổng quan giữa quark, proton, neutron và electron mà thôi, nghĩa là nguyên tử thật ra chỉ là lực kết nối các hạt quark, proton, neutron và electron lại với nhau. Chúng ta thấy và cảm nhận cái hình tướng là nguyện tử, thật ra chỉ là lực tương tác giữa các hình tướng ảo khác là quark, proton, neutron, electron. Ngay cả lực cũng không có thật, lực chỉ có trong tâm thức. Chính vì lẽ này mà Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).

d) Lực có thể chuyển hóa thành năng lượng và ngược lại. Năng lượng của các nhà máy điện nguyên tử chính là lực tương tác hạt nhân mạnh được giải phóng do sự phân rã của nguyên tử uranium U235 hoặc plutonium Pn239.

Nguyên tử Uranium 235

Cụ thể như sau: Để tạo ra sự phân hạch của U -235, cần phải làm cho nơtron đi vào hạt nhân của nó. Vì hạt nhân nguyên tử rất nhỏ nên nơtron có tốc độ cao mặc dù có thể đến gần hạt nhân nhưng nhiều khi lại bay qua bên cạnh mà không trúng hạt nhân và cơ hội xâm nhập vào bên trong hạt nhân rất ít. Nếu làm giảm tốc độ của nơtron và kéo dài thời gian tồn tại của nó ở bên cạnh hạt nhân thì xác suất va chạm với hạt nhân sẽ trở nên cao hơn. Người ta gọi nơtron đã bị giảm tốc độ là nơtron nhiệt (Thermal Neutron). Nơtron nhiệt sẽ gây ra phản ứng phân hạch (Nuclear Fission) khi va chạm với một hạt nhân nguyên tử U -235, các mảnh vỡ đó bay phân tán với tốc độ cao. Phản ứng sinh ra một năng lượng khổng lồ được gọi là năng lượng nguyên tử, phát ra dưới dạng nhiệt, ánh sáng với các tia gama, beta, alpha mà nguồn gốc phát sinh là các proton, neutron, electron tự do tức là không bị kết hợp trong các nguyên tử của các nguyên tố mới. Các tia này là phóng xạ độc hại gây ra bệnh tật lâu dài cho sinh vật. Phản ứng ngoài việc giải phóng ra một năng lượng cực lớn, đồng thời sinh ra 2~3 nơtron mới. Các neutron này tiếp tục bắn phá hạt nhân U235 khác tạo ra phản ứng dây chuyền ngày càng tăng, đó là nguyên lý của bom nguyên tử, còn trong nhà máy điện nguyên tử, người ta kiểm soát quá trình này để chỉ duy trì phản ứng ở một mức nhất định. Người ta gọi mảnh vỡ phát sinh do phân hạch là sản phẩm phân hạch (Fission Product). Phần lớn sản phẩm phân hạch có tính phóng xạ. Sau đây là một số sản phẩm phân hạch tiêu biểu:


-Strontium-90 (Sr-90) Chu kỳ bán rã khoảng 30 năm, khi hấp thụ vào cơ thể sẽ đọng ở xương và việc loại bỏ ra ngoài là khá khó khăn.

-Iodine-131 (I-131) Chu kỳ bán rã khoảng 8 ngày, khi hấp thụ vào cơ thể sẽ tập trung ở tuyến giáp trạng.

-Cesium-137(Cs-137) Chu kỳ bán rã khoảng 30 năm, dù có hấp thụ vào cơ thể cũng sẽ bài tiết tương đối sớm ra ngoài qua đường tiêu hoá.

Biểu đồ phản ứng phân hạch Uranium 235

Trong biểu đồ, hạt nhân U235 bị phân rã thành 3 nguyên tố mới là : U236, Kripton và Barium


Năng lượng chuyển hóa thành lực thì chúng ta thấy rất nhiều trong đời sống hàng ngày. Chẳng hạn động cơ nổ chuyển hóa từ nhiệt năng do đốt nhiên liệu thành cơ năng tức là lực đẩy chiếc xe chạy tới, hoặc đẩy chiếc phi cơ bay tới. Hoặc năng lượng điện biến thành cơ năng chạy các máy móc, động cơ điện, đồ điện gia dụng và đồ điện tử. Thế năng của nước biến thành điện năng với các đập thủy điện. Quang năng của ánh sáng, Phong năng của gió đều có thể biến thành điện năng với các tấm pa-nô mặt trời (panneaux solaires) hoặc tua-bin gió.


Sau khi đã khảo sát các khái niệm về lực, ta bắt đầu đi vào xác định 3 cấp độ của lực học :

I. Cấp độ I, lực học Newton (1643-1727) : Lực chủ đạo là lực hấp dẫn và lực quán tính, đối tượng nghiên cứu là các thiên thể vĩ mô trong vũ trụ và các vật thể trung mô trong cuộc sống quanh ta. Khảo sát mang tính định lượng, công cụ chủ yếu là toán học và tư duy. Newton phát biểu 3 định luật cơ học :

Định luật 1 Newton (còn gọi là định luật quán tính): Một vật đang đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều sẽ đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều mãi mãi nếu không bị buộc phải thay đổi trạng thái đó bởi ngoại lực tác dụng lên vật.


Định luật 2 Newton: Biến thiên động lượng của một vật theo thời gian tỉ lệ với tổng lực tác dụng lên vật, và có hướng là hướng của tổng lực.

Định luật 3 Newton: Đối với mỗi lực tác động bao giờ cũng có một phản lực cùng độ lớn, nói cách khác, các lực tương tác giữa hai vật bao giờ cũng là những cặp lực cùng độ lớn và ngược chiều.

Ngoài ra ông còn tìm ra định luật vạn vật hấp dẫn: Hai vật có khối lượng M và m sẽ hút lẫn nhau bằng một lực F, tỉ lệ thuận với khối lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách r , vật có khối lượng nhỏ m sẽ bị kéo về phía vật có khối lượng lớn M với gia tốc G. Công thức toán học là :

Lục Tổ Huệ Năng

Còn các ngoại đạo như Trương Bảo Thắng cũng có thể có thần thông, nhưng nếu biểu diễn nhiều lần, họ sẽ mất hết công lực và không còn làm được nữa.


Sức mạnh tâm linh cũng có thể giúp hành giả tiếp xúc được với chúng sinh của thế giới khác, chẳng hạn thế giới của người quá cố. Các thế giới đó chẳng phải ở đâu xa, chúng đều nằm trong A lại da thức.

Sức mạnh tâm linh có thể phá bỏ sự ngăn cách giữa quá khứ, hiện tại, vị lai, phát hiện thực tướng thời gian không có thật, khiến có thể tiên đoán chính xác sự kiện chưa xảy ra. Đây không phải là dự đoán, không dựa trên suy luận lô-gích, mà thấy đích xác sự kiện, nói chưa diễn ra là nói theo chủ quan về thời gian của người đời, chứ dữ liệu đã có trong a-lại-da thức. Chú bạch tuộc Paul chọn Tây Ban Nha chiến thắng Hà Lan trong Giải World Cup Bóng Đá 2010 tại Nam Phi trước khi diễn ra trận đấu và thực tế diễn ra đúng như vậy.

Quốc kỳ Tây Ban Nha
Quốc kỳ Hà Lan

Bạch tuộc Paul tiên tri kết quả trận chung kết Worid Cup 2010, Tây Ban Nha và Hà Lan (https://www.youtube.com/watch?v=h-mZC7GaLWA)

Tiên tri của bạch tuộc Paul không phải ngẫu nhiên, vì 8 lần tiên đoán đều đúng 100% trong khi xác suất ngẫu nhiên để ra kết quả đúng trong 8 lần liên tiếp là rất thấp, không có đầu óc hoặc máy tính lô-gích nào làm được.

Sau đó không lâu, gần 4 tháng sau World Cup, bạch tuộc Paul tịch theo đúng truyền thống Phật giáo vì đã để lộ cho người đời thấy thần thông của mình, thọ hai tuổi rưỡi.

Về mặt luân hồi nghiệp chướng, lực học Thích Ca tác động tới kho dữ liệu của A-lại-da thức tạo ra nhân quả, tạo ra luân hồi tái sinh, trong trường hợp này lực ấy là nghiệp lực mà chúng sinh mê muội bị dẫn dắt để đi đầu thai, còn bậc giác ngộ, Bồ Tát thì tự chủ gọi là sinh tử tự do như trường hợp của gia đình cư sĩ Bàng Uẩn

Kể chuyện gia đình cư sĩ Bàng Uẩn

Còn luân hồi tái sinh thì như trường hợp của nhà văn Huỳnh Đình Kiên đời Tống hoặc trường hợp sau ngay thời hiện đại

Trường hợp tái sinh của bé Quyết Tiến (link trực tiếp)

Tóm lại, lực học Thích Ca nói rằng tất cả lực đều là tâm, tất cả vật cũng đều là tâm, ngoài tâm không có vật, như lời của Lục Tổ Huệ Năng của Thiền tông Trung Quốc:

本來無一物 Bản lai vô nhất vật, Xưa nay vốn không có một vật nào

何處惹塵埃 Hà xứ nhạ trần ai? Bụi trần bám vào đâu?

Đừng tưởng rằng chỉ có các nhà đạo học nói năng mông lung mà không chứng minh được, các nhà khoa học hàng đầu thế giới ngày nay cũng đã đã nhận ra ý này. Heisenberg, (1901-1976 nhà vật lý lý thuyết người Đức, người khám phá ra nguyên lý bất định, nói: “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật). Heisenberg nói tới một thế giới tiềm thể, có tiềm năng hiện hữu nhưng chưa hiện hữu, đó chính là cấu trúc ảo của vật chất mà nhà triết học Immanuel Kant (1724-1804) gọi là vật tự thể (Das ding an sich) bất khả tri, còn Phật giáo gọi là vô thủy vô minh. Cấu trúc ảo đó cần phải có nhất niệm vô minh khởi lên, hai cái vô minh tương tác thì vật mới hiện hữu thành sơn hà đại địa, cỏ cây sinh vật, nhà cửa xe cộ…Chính vì vật chất là ảo hóa nên Phật giáo mới nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Cảnh giới mà chúng ta thấy là thế lưu bố tưởng (tưởng tượng lưu truyền phổ biến ở thế gian), bậc thánh cũng có thế lưu bố tưởng, thấy y như người đời, nhưng vì không chấp đó là sự thật nên các ngài không có chấp trước tưởng, tức là vướng mắc trong ái dục, tham cầu, chấp ngã, chấp pháp dẫn đến khổ. Giác ngộ chỉ là thấy rõ tam giới chỉ là ảo, vận dụng được tâm lực một cách như ý, không còn vướng mắc trong luân hồi sanh tử.

Trong ba thứ lực học kể trên, lực học Newton và Einstein có thể đem lại cuộc sống tiện nghi cho con người bằng những phát minh sáng chế rất tài tình, chẳng hạn nhà cửa, xe cộ, máy bay, tàu thủy, máy vi tính, điện thoại di động…Nhưng tôi nghĩ chỉ có lực học Thích Ca mới đem lại cuộc sống giác ngộ, mưu cầu sự an lạc và hòa bình đích thực cho nhân loại và muôn loài chúng sinh một cách vững chắc.

Truyền Bình

Truyền Bình

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/luc-hoc-thich-ca-doi-chieu-voi-co-hoc-newton-va-thuyet-tuong-doi-cua-einstein-d18967.html)

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY