Trước đây, loét dạ dày - tá tràng chủ yếu được điều trị ngoại khoa, đến nay, nhờ có nhiều loại Thuốc ra đời mà phương pháp nội qua được lựa chọn chủ yếu. Dưới đây là các nhóm Thuốc trị loét dạ dày - tá tràng và các tác dụng phụ cần lưu ý.
Trước đây, loét dạ dày - tá tràng chủ yếu được điều trị
ngoại khoa, đến nay, nhờ có nhiều loại Thuốc ra đời mà phương pháp nội qua được
lựa chọn chủ yếu. Dưới đây là các nhóm Thuốc trị loét dạ dày - tá tràng và các
tác dụng phụ cần lưu ý.
Nhóm Thuốc kháng acid (antacid):
Cho đến nay có nhiều loại Thuốc antacid dùng để chữa loét
tiêu hóa. Một Thuốc antacid được gọi là lý tưởng phải mạnh để trung hòa acid dạ
dày, dễ uống, ít hấp thu vào máu từ đường dạ dày ruột, đồng thời ít
tác dụng
phụ.
Bicarbonat natri và canci carbonat là các antacid
tác dụng
nhanh, mạnh, nhưng có khuynh hướng gây nhiễm kiềm toàn thân và chứa nhiều natri
(hội chứng sữa – kiềm), đồng thời nó gây một trở ngược làm tăng tiết gastrin
dẫn đến HCl lại được tiết nhiều hơn trước. Canci carbonat cũng gây nên hội
chứng sữa kiềm và canci còn kích thích trực tiếp lên tế bào thành gây tăng tiết
HCl. Do đó, các Thuốc này hiện nay hầu như không dùng trong điều trị loét tiêu
hóa.
Hydroxit nhôm Thuốc có xu hướng gây táo bón, khi sử dụng kéo
dài nguy cơ cạn kiệt phosphat, kết quả bệnh nhân có biểu hiện mệt mỏi, khó
chịu, chán ăn.
Hydroxit magie có thể làm phân lỏng; Thuốc được thải qua
thận, do vậy khi sử dụng các chế phẩm có magie cần thận trọng với bệnh nhân suy
thận.
Các Thuốc kháng thụ thể H2 của histamin
Cimetidin là thế hệ đầu tiên của Thuốc kháng H2, có
tác dụng
cắt cơn đau nhanh. Cimetidin dùng lâu có thể có
tác dụng phụ như rối loạn tinh
thần (ở người già, người suy thận), nhịp tim chậm, hạ huyết áp, tăng nhẹ men
gan, vú to, liệt dương... các
tác dụng phụ này sẽ hết khi ngừng dùng Thuốc.
Ranitidin là thế hệ thứ hai, ra đời sau cimetidin, gây giảm
tiết dịch vị gấp 5 – 10 lần cimetidin khi sử dụng cùng liều. Thuốc không làm
thay đổi diễn tiến tự nhiên của bệnh. Sau đợt điều trị ngắn hạn mà dừng Thuốc
tỷ lệ tái phát là 50% trong vòng 6 tháng, 85% tái phát sau 1 năm. Thuốc có ít
tác dụng phụ hơn cimetidin, chủ yếu là nhức đầu, chóng mặt, ngứa,... ngừng
Thuốc thì hết.
Các Thuốc thế hệ 3 (nizatidin), thế hệ 4 (famotidin) ra đời
có
tác dụng mạnh hơn và ít
tác dụng phụ hơn cimetidin rất nhiều.
Thuốc ức chế bơm proton
Omeprazole có thể làm hết các triệu chứng lâm sàng ngay từ
những ngày đầu sử dụng. Các
tác dụng phụ thường thấy là tiêu chảy, táo bón, đau
đầu.
Lansoprazole là Thuốc ức chế bơm proton thế hệ thứ hai,
Thuốc có
tác dụng làm liền sẹo tốt.
tác dụng phụ ít gặp, chủ yếu là nhức đầu,
buồn nôn, rối loạn tiêu hóa.
Pantoprazole là Thuốc thế hệ thứ 3 trong nhóm này. Thuốc
được dung nạp tốt, liền sẹo nhanh, ít
tác dụng phụ.
Rabeprazole Thuốc thế hệ thứ 4,
tác dụng ức chế tiết acid
mạnh hơn omeprazole 2 – 10 lần. Thuốc nhanh chóng kiểm soát acid, ngay trong
ngày đầu đã chế tiết acid tới 88%.
tác dụng phụ thường gặp là hoa mắt, chóng
mặt, nhức đầu...
Esomeprazole Thuốc thế hệ thứ 5, có
tác dụng ức chế tiết
acid kéo dài. Thuốc ít
tác dụng phụ, có thể gặp là nhức đầu, tiêu chảy, đau
bụng, buồn nôn.
Các Thuốc băng se và bảo vệ niêm mạc dạ dày
Sucralfat được sử dụng tốt trong trường hợp trào ngược dịch
mật. Thuốc có thể gây táo bón, giảm hấp thu tetracycline, phenytonin... và
không dùng cho người suy thận nặng.
Bismuth dạng keo là một kim loại nặng, trước đây người ta đã
sử dụng bismuth để điều trị bệnh loét tiêu hóa có hiệu quả, song dùng liều cao
kéo dài gây ra hội chứng não bismuth và từ đó đã có khuyến cáo không nên dùng
bismuth. Từ khi phát hiện bismuth có thêm khả năng diệt vi khuẩn Helicobacter
pylori (HP), người ta tái sử dụng bismuth để điều trị loét tiêu hóa dưới các
dạng keo hữu cơ. Thuốc an toàn khi sử dụng liều ngắn hạn, phân có màu sẫm hoặc
đen là bình thường.
Nhóm Thuốc nuôi dưỡng niêm mạc dạ dày
Dùng các Thuốc prostaglandin (PG) được chứng minh trong lâm
sàng có hiệu quả trong điều trị viêm loét tiêu hóa, chúng làm giảm bài tiết
acid dạ dày và kích thích, đồng thời làm tăng sức đề kháng niêm mạc đối với tổn
thương mô. Thuốc có
tác dụng tăng bài tiết chất nhầy; kích thích bài tiết
bicarbonat dạ dày và tá tràng; duy trì và tăng lượng máu tới niêm mạc dạ dày;
duy trì hàng rào niêm mạc dạ dày; kích thích sự hồi phục tế bào niêm mạc dạ
dày.
Kháng sinh diệt HP
Amoxicilline: được sử dụng trong các phác đồ diệt HP và cho
hiệu quả cao vì hầu như không có hiện tượng kháng Thuốc,
tác dụng phụ ít, có
thể gặp đi ngoài, viêm đại tràng giả mạc, buồn nôn, nôn...
Metronidazol và tinidazol: là các kháng sinh thuộc nhóm 5
nitroimidazol,
tác dụng phụ của metronidazol khi dùng ngắn ngày có thể buồn
nôn, đi ngoài, dị ứng; dùng dài ngày có thể bị giảm cảm giác.
Clarithromycin: kháng sinh thuộc nhóm macrolid, có phổ hoạt
động rộng với vi khuẩn Gr ( ) và Gr(-). Trong điều trị HP hiện clarithromycin
được khuyên dùng trong phác đồ ba Thuốc. Clarithromycin có hiệu quả diệt HP
cao, tỷ lệ kháng Thuốc của vi khuẩn thấp và ổn định hơn rất nhiều metronidazol.
ThS. Nguyễn Vân Anh