Tâm linh hôm nay

Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ (Phần 2)

Sắc uẩn nói chung gồm bốn thành tố là: đất, nước, gió, lửa. Đối với con người, bốn chất cơ bản đó tạo thành các bộ phận cơ thể của thân xác mà nhà Phật gọi là thân tứ đại gồm địa đại, thủy đại, phong đại và hỏa đại.

II. NỘI DUNG CỦA NGŨ UẨN

1. Các thành phần của Ngũ uẩn :

Ta biết rằng theo tinh thần Phật giáo, con người được sinh ra là do sự hòa hợp của nhiều nhân duyên, của tất cả những nghiệp duyên có từ trong những đời quá khứ từ trước mà tạo ra trong kiếp này. Do vậy thân con người là sự kết hợp, tạo thành của Phần

Ngoài ra, khi tìm hiểu về Ngũ uẩn, không phải chỉ biết nội dung của 2. Nội dung của từng uẩn:

2.1. Sắc uẩn:

Sắc uẩn là sự kết tụ, sự chứa chất của vật chất để tạo ra những hình tướng như thân thể và cảnh sắc hay cảnh vật. Vì vậy tất cả mọi sự vật, cảnh sắc trong thế giới, vũ trụ đều gọi là sắc; từ các tinh tú trong vũ trụ, đến núi non, sông ngòi, cây cối, nhà cửa (mà các vị tổ xưa thường gọi là sơn hà đại địa ), cho đến mọi đồ đạc, tất cả có hình sắc đều gọi là sắc. Riêng đối với con người, sắc chính là phần thân thể bằng xương bằng thịt.

Gió là chất khí hay chất hơi (phong đại) là hơi thở, chất khí vận hành trong người v.v…

Tóm lại, phần cơ thể vật chất của con người gồm có bốn thành tố này (bốn đại) hợp lại tạo thành, nên nhà Phật thường gọi con người là “cái thân bốn đại”.

Nhưng những thành phần sắc uẩn trong giáo lý Ngũ uẩn này được biểu hiện cụ thể bằng các giác quan của thân con người mà nhà Phật gọi là các Vậy tại sao lại chỉ lấy các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gọi là các căn trong sắc uẩn mà không lấy các cơ quan khác của con người như tim, phổi, thận, gan, ruột v.v…làm sắc uẩn để nghiên cứu ? Bởi vì các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mới là các cơ quan của con người tiếp xúc với thế giới bên ngoài, tiếp xúc với các cảnh trần bên ngoài. Chính các cảnh trần bên ngoài là đối tượng tiếp xúc của các căn và gọi là các trần. Cụ thể : đối tượng tiếp xúc của mắt (nhãn căn) là các cảnh sắc bên ngoài mà mắt nhìn thấy nên gọi là sắc trần. Đối tượng tiếp xúc của tai (nhĩ căn) là tiếng động, âm thanh mà tai nghe thấy nên gọi là thanh trần. Đối tượng tiếp xúc của mũi (tỷ căn) là mùi, hương mà mũi ngửi thấy nên gọi là hương trần. Đối tượng tiếp xúc của lưỡi (thiệt căn) là mùi vị mà lưỡi nếm được nên gọi là vị trần. Đối tượng tiếp xúc của thân là những gì mà thân tiếp xúc được nên gọi là xúc trần. Ngoài ra đối tượng của ý (ý căn) là cảnh biết của ý thức chỉ được nhận biết từ trong nội tâm nên gọi là pháp trần.

Tóm lại trong Sắc trần : cảnh sắc mà mắt nhìn thấy bao gồm tất cả những vật thể có hình dạng từ cái to nhất đến cái nhỏ nhất.

Thanh trần: âm thanh mà tai nghe được gồm tiếng nói, tiếng cười, tiếng khóc v.v…của con người ; tiếng động của trời đất vũ trụ như tiếng sấm, tiếng gió rít, tiếng sóng vỗ v.v… do thiên nhiên gây ra ; âm thanh của các vật thể có tác động của con người như tiếng chuông, tiếng trống, tiếng mõ v.v…do con người tác động mới có.

Hương trần: mùi do mũi ngửi được bao gồm mùi thơm, hôi thối v.v…do con người và thiên nhiên gây ra.

Vị trần: mùi vị do lưỡi nếm được như cay, đắng, ngọt, bùi v.v…

Xúc trần: cảm xúc do thân biết được như đói, no, khát, nóng, lạnh, mềm, rắn, ngắn, dài, to, nhỏ v.v…

Pháp trần: cảnh biết do ý thức nhận được, nghĩa là tất cả những gì là đối tượng của ý, của nhận thức đều gọi là pháp.

Trong đó sáu trần gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là đối tượng của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Các căn và trần tạo thành 2.2. Thọ uẩn :

- Khi mắt nhìn một bông hoa đẹp thì cảm nhận được màu sắc tươi sáng, vẻ thanh lịch của bông hoa đó làm cho ta vui vẻ, khoan khoái. Khi nhìn một dòng sông rộng, nước chảy xiết, đỏ màu phủ sa làm cho ta thấy lo ngại khi phải bơi qua vì sông rộng và nước chảy xiết. Khi nhìn thấy một tà áo dài tha thướt làm cho ta cảm nhận thấy cái duyên dáng, cái thanh tao của tà áo hay của người mặc áo. Vậy do mắt (nhãn căn) tiếp xúc với cảnh vật (sắc trần) mới có thọ uẩn.

- Hoặc như khi tai nghe một bài thuyết trình của một diễn giả danh tiếng thì cảm nhận được cái hay, cái ý nghĩa của từng lời nói làm cho ta xúc động, ta vui hay thích. Nhưng nếu tai nghe những lời khiếm nhã của một kẻ nào đó thì lòng cảm thấy buồn bực. Tai nghe một bản nhạc hay thì cảm nhận được cái vui, cái buồn của bản nhạc đó khiến cho tâm hồn ta rung động. Vậy do tai (nhĩ căn) tiếp xúc với âm thanh (thanh trần) mới có thọ uẩn.

- Khi ta bước vào chính điện cùa một ngôi chùa, mũi ta ngửi thấy mùi hương bay thơm một cách nhẹ nhàng thoang thoảng ta cảm nhận thấy tâm hồn thư thái thanh tịnh, hoặc khi mũi ta ngửi những làn hương thơm ngào ngạt khi ta đứng trước một vườn hoa, ta cảm thấy vui, nhưng khi ta đi qua một bãi rác bốc mùi hôi thối thì ta cảm thấy khó chịu. Vậy do mũi (tỷ căn) tiếp xúc với mùi hương (hương trần) mới có thọ uẩn.

- Khi lưỡi ta nếm được món ăn ngon, ta cảm nhận được vị thơm ngon làm cho ta vui thích, sung sướng, hoặc khi lưỡi ta đụng phải vị cay của ớt thì ta cảm nhận vị cay đó làm ta khó chịu. Vậy do lưỡi (thiệt căn) tiếp xúc với mùi vị (vị trần) mới sinh ra thọ uẩn.

- Khi tay nhận món quà của người trao tặng thì cảm thấy vui. Khi tay ta sờ vào một chiếc áo lông ta cảm thấy sự mềm dịu làm ta vui thích hoặc tay ta sờ phải cái gai thì cảm nhận thấy đau. Vậy do tay (thân căn) tiếp xúc với vật thể (xúc trần) mới có thọ uẩn v.v…

Tất cả những cái đó là sự thụ nhận tức là

- Lạc thọ là sự cảm nhận được niềm vui, cái sung sướng ở thế gian do sự tiếp xúc mà ra.

- Khổ thọ là cảm nhận nỗi buồn, sự đau khổ hay bất hạnh do cuộc đời đưa đến.

- 2.3. Tưởng uẩn:

Tưởng uẩn là sự nhận biết các tri giác như màu sắc, âm thanh, mùi vị…Sau khi lục căn tiếp xúc với lục trần (tức khi đã có thọ uẩn) để thấy được các cảnh khổ vui, xấu đẹp và sau đó bắt đầu so sánh phân biệt. Đó chính là giai đoạn [2] . Ví dụ khi người ta nhìn một cành hoa hồng, cành hoa đó, màu sắc đó là sự thọ nhận tức thọ uẩn. Nhưng để phân biệt so sánh với các loại hoa hồng khác hay với các loài hoa khác thì phải cần đến tưởng uẩn, nó được lưu lại trong tâm. Một ví dụ khác, người ta thường biết có nhiều loại cầu qua sông, nhưng chưa biết thế nào là chiếc cầu dây văng, khi đã một lần thấy cầu dây văng thì để lại ấn tượng trong đầu. Khi ở một nơi nào đó sẽ xây dựng một chiếc cầu dây văng, dù nó chưa được xây dựng nhưng ta đã tưởng ra được chiếc cầu dây văng sẽ xây dựng như thế nào. Một ví dụ khác : ban đêm khi ta nhìn ra cánh đồng nghĩa địa thấy những đốm ánh sáng do chất lân tinh từ trong thể xác dưới mồ bốc lên, gặp không khí trong đêm cháy sáng thì ta tưởng là ma. Đó là tưởng, nó là hình ảnh trong tâm, chứ không phải là tư tưởng mà ta thường gọi.

2.4. Hành uẩn:

Hành có nghĩa là tạo tác, là thực hiện bằng lời nói, bằng việc làm, bằng suy nghĩ điều gì đó, tức là thực hiện tạo tác bằng thân, khẩu, ý, tất cả đều gọi là Hành

Hành uẩn là những hoạt động tâm lý sau khi có tưởng uẩn. Sau khi so sánh phân biệt (qua giai đoạn tưởng uẩn), thì ý niệm (tư duy, suy nghĩ) tức là tưởng uẩn bắt đầu thực hiện ý đồ nên đã sai khiến 2.5. Thức uẩn:

Thức tức là sự nhận thức, nhận biết được cái gì đó. Vì vậy, thức uẩn là cái được hình thành do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà tạo nên. Đó là sáu thức. Chính sáu thức là cái giúp cho người ta phân biệt được màu sắc, âm thanh, mùi vị… Ngoài ra, thức uẩn còn chính là cái kho chứa những ý thức, tư duy, suy nghĩ, kỷ niệm, các chủng tử, ký ức...giúp cho việc thực hành hành uẩn, tạo ra nghiệp lực.

Thức bao gồm tám loại khác nhau gồm năm thức đầu tiên, còn gọi là 3. Nhiệm vụ từng uẩn trong Ngũ uẩn

Ta đã biết rằng ngũ uẩn là thân con người. Đã là người thì phải có ngũ uẩn gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Con vật cũng có thân ngũ uẩn, chỉ khác con người ở chỗ những con vật đó không có lý trí, không có tri thức, hiểu biết, nhận thức. Hay nói khác đi thức uẩn của con vật ở mức độ rất thấp. Con vật chỉ thuần túy sống theo bản năng, không biết nhận thức cái tốt và cái xấu, không biết sáng tạo ra của cải vật chất. Như vậy, con vật tuy cũng có ngũ uẩn, nó có sắc uẩn là cái thân của nó, có thọ uẩn vì có thụ nhận cảm giác, ví như con trâu, khi người nông dân dùng roi điều khiển, con trâu thụ nhận cảm giác mà thực hiện theo điểu khiển của người nông dân, có tưởng, hành và thức uẩn, song cái thức uẩn của con vật vô cùng thấp và không thể phát triển như thức uẩn của con người. Chính vì vậy, đạo Phật nói rằng loài súc sinh là ngu si, là vô minh.

Một điều cần chú ý là cần phân biệt -

- - - Có thể lấy một ví dụ về con mắt. Con mắt (nhãn căn) nhìn bức tranh (sắc trần) tạo thành sắc uẩn. Do con mắt nhìn bức tranh tạo nên có cảm giác thọ nhận tức là thọ uẩn. Nhưng những cảm giác của thọ uẩn đó chưa phân biệt được bức tranh đẹp hay xấu như thế nào thì khi đó phải nhờ đến tưởng uẩn mới phân biệt so sánh xấu hay đep được. Nhưng tưởng uẩn không tự mình làm được nên phải nhờ thức uẩn vì thức uẩn có tàng thức chứa đựng các chủng tử, kỷ niệm, kinh nghiệm, ký ức mới so sánh được. Và sau khi so sánh phân biệt được, tưởng uẩn mới tạo ra ý định khiến hành uẩn thực hiện nhiệm vụ của mình là điều khiển thân nghiệp và khẩu nghiệp tạo ra nghiệp lực của con người.

Đó chỉ là một ví dụ về căn mắt, các căn khác như các căn mũi, lưỡi, thân, ý cũng thực hiện theo cách như vậy.

Còn nữa...

Trích tập sách "Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ" của tác giả Phạm Đình Nhân

Chú thích: Nội dung do tác giả gửi tới phatgiao.org.vn

[1] Cũng có quan điểm cho rằng cần hiểu theo một trật tự khác như trong bài viết Ngũ uẩn trong giáo lý nguyên thủy của Ðức Phật của Thích Nguyên Tạng. Trong bài viết này, tác giả xếp theo thứ tự Sắc, Thức, Tưởng, Thọ, Hành. (http:/www.quangduc.com/Thien/43nguuan.html)

[2] Trong chữ Hán, chữ Tưởng (想)có chữ Tướng (相)ở trên chữ Tâm (心), nói cách khác là trên chữ Tâm có chữ Tướng. Có hàm ý là cái tướng (hình ảnh, cảnh sắc) còn lưu lại đặt ở trong tâm mình.

[3] Từ đây trở đi dùng chữ để chỉ A lại da thức, tức thứ tám.

Phạm Đình Nhân

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/ngu-uan-bai-hoc-ve-diet-kho-phan-2-d12321.html)
Từ khóa: bài học

Chủ đề liên quan:

bài học

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY