Tâm linh hôm nay

Ngũ uẩn, bài học về diệt khổ (Phần 3)

Các uẩn trong ngũ uẩn đều có tính chất lôi kéo nhau, liên hệ với nhau. Ví dụ có sắc mới có thọ. Có thọ rồi mới có tưởng, nhưng để có tưởng phải nhờ có thức

III. SỰ VẬN HÀNH CỦA NGŨ UẨN

1.Tính chất của ngũ uẩn:

1.1. Ngũ uẩn được xếp theo thứ tự là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Có cái nọ rồi mới có cái kia, không thể xếp đảo lộn. Bởi vì có sắc mới có thọ, có thọ mới có tưởng, có tưởng mới có hành v.v…

1.2. Con người ta là một thể thống nhất gồm có phần vật chất là thân con người tức sắc uẩn và phần tinh thần thuộc về tâm là bốn uẩn : thọ, tưởng, hành, thức, biểu hiện ở tâm hồn, cảm giác, suy tư, lý trí và ý thức. Do đó thân và tâm thống nhất là một mới hình thành con người. Nên tính chất của uẩn là sự kết hợp, hòa quyện không rời nhau giữa tâm và thân. Không thể tách bỏ riêng ra từng phần, nghĩa là không thể thành con người nếu chỉ có thân mà không có tâm. Và ngược lại cũng không thể thành con người, nếu chỉ có tâm và không có thân.

1.3. Trong mỗi một uẩn đều có nhiều yếu tố, ví như trong sắc uẩn bao gồm thân tứ đại gọi là phù trần căn và hệ thần kinh gọi là tịnh sắc căn, trong thức uẩn cũng có nhiều thức khác nhau như tiền ngũ thức, ý thức, mạc na thức và tàng thức.

1.4. Các uẩn trong ngũ uẩn đều có tính chất lôi kéo nhau, liên hệ với nhau. Ví dụ có sắc mới có thọ. Có thọ rồi mới có tưởng, nhưng để có tưởng phải nhờ có thức.

1.5. Sự kết tụ của năm uẩn là khổ. Nên bản chất của con người là khổ đau. Kinh Đại Bát Nhã có nói : “Cái thân con người là một đống khổ não kết tụ với nhau, là tướng của khổ đau, của sinh già bệnh ch*t, của tham sân si mạn vv…”.

2. Quá trình vận hành của ngũ uẩn.

Nói một cách tổng quát : Cơ thể con người mà cụ thể là năm giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, là hiện tượng Quá trình vận hành của ngũ uẩn có thể diễn đạt cụ thể như sau (đối với từng căn một):

2.1. Đối với con mắt (nhãn căn) :

Khi con mắt nhìn bức tranh mỹ thuật treo trên tường, tức

Tuy nhiên, tưởng uẩn không thể tự mình có cái để mà phân biệt so sánh vì những cái đó nằm trong tàng thức, nên tưởng uẩn phải nhờ thức thứ 7 tức Mạc na thức đưa tư tưởng vào thức uẩn (tàng thức) mới có thể so sánh, phân biệt giữa những cái vừa thấy với những cảm xúc, chủng tử, kinh nghiệm, ký ức đã xảy ra trong quá khứ đã ghi lại nằm trong tàng thức. Cụ thể ở đây là trong tàng thức đã có sẵn những ký ức về những tác phẩm mỹ thuật mà người ta đã lưu giữ từ cuộc sống trong quá khứ để lại, nên có thể so sánh, phân biệt và đánh giá, thưởng thức được. Khi so sánh xong, thì tư tưởng biến thành ý thức (thức thứ 6) để sai khiến thân và khẩu thực hiện những gì nó muốn tức là Một ví dụ khác về con mắt tức nhãn căn: Có một chàng thanh niên trong buổi kỷ niệm mừng sinh nhật của người bạn thân đã gặp các cô gái cùng đến dự. Mắt của anh ta nhìn chăm chú đến một trong những cô gái đến dự, nghĩa là nhãn căn tiếp xúc với sắc trần tạo nên sắc uẩn, nhưng sắc uẩn đó chỉ là hình tướng chưa có phần tâm lý. Sau đó giây thần kinh thị giác của con mắt do nhìn thấy cô gái mới tạo nên sự rung động, nảy sinh cảm giác có cảm tình với cô gái đó, tức là giai đoạn thọ uẩn và qua quá trình vận hành từ thọ uẩn đến tưởng uẩn, rồi từ tưởng uẩn nhờ vào sự so sánh, phân biệt với các tình cảm, kỷ niệm, ký ức, các chủng tử của cuộc đời của anh ta có sẵn trong tàng thức (thức thứ 8) làm cho anh ta nảy sinh ra ý niệm yêu đương trìu mến, về nhà thì thương vụng nhớ thầm, cái tham ái nổi lên làm cho anh ta đau khổ.

2.2. Đối với cái tai (nhĩ căn):

Khi tai ta nghe thấy tiếng sấm rền, tiếng gió rít trên không trung, tức nhĩ căn tiếp xúc với thanh trần thì cái tai là sinh lý, còn tiếng sấm và tiếng gió là vật lý, hai thứ đó gọi chung là sắc uẩn. Đó mới chỉ là hình tướng mà chưa có phần tâm linh. Khi giây thần kinh thính giác của tai tiếp xúc với âm thanh của sấm và của gió mới tạo ra sự rung đông, những cảm giác vui hay buồn, ghê sợ hay không ghê sợ thì đó gọi là thọ uẩn, tức là mới cảm nhận nhưng chưa có sự phân biệt được cái ghê sợ, vui buồn là như thế nào. Nhưng khi bộ óc và hệ thần kinh tiếp xúc với những cảm giác đó thì mới có tư tưởng tức là Một ví dụ khác, có một đại gia trong một lần đi xem một vở cải lương, anh ta được nghe một giọng hát từ một nữ tài tử. Tai anh ta nghĩa là nhĩ căn tiếp xúc với tiếng hát tức thanh trần tạo nên sắc uẩn, nhưng sắc uẩn đó chỉ là phần vật lý tiếp xúc với phần sinh lý và chưa có phần tâm lý. Sau đó giây thần kinh nhĩ giác của tai do nghe được tiếng hát của nữ tài tử mới tạo nên sự rung động, nảy sinh cảm giác say mê tiếng hát và có cảm tình với tiếng hát hay đó, tức là sang giai đoạn thọ uẩn và qua quá trình vận hành từ thọ uẩn đến tưởng uẩn, rồi từ tưởng uẩn nhờ vào sự so sánh, phân biệt với các những âm thanh, tiếng hát, những kỷ niệm, ký ức, các chủng tử của cuộc đời của anh ta có sẵn trong tàng thức (thức thứ 8) làm cho anh ta nảy sinh ra ý niệm say mê tiếng hát và cảm thấy cuộc sống của anh không thể không có tiếng hát ngọt ngào và say đắm lòng người của người nữ tài tử kia. Rồi sinh ra yêu đương trìu mến muốn có người nữ tài tử là của riêng của mình để một mình mình hàng ngày được nghe tiếng hát. Từ cái thủ uẩn đó đã phát sinh lòng tham ái, yêu đương rồi tìm cách để chiếm được nữ tài tử về nhà cho mình mà gây ra bao đau khổ phiền não cho cuộc đời anh ta khi không được thỏa mãn lòng khao khát yêu đương đó.

2.3. Đối với cái mũi (tỷ căn) :

Khi mũi ta ngửi thấy mùi hương trầm trên chính điện của ngôi chùa, hay mùi hương của những bông hoa cúng Phật, tức tỷ căn tiếp xúc với hương trần thì cái mũi là sinh lý, còn mùi hương hoa trong chùa thuộc về cảnh trần tức là phần vật lý, hai thứ đó gọi chung là sắc uẩn. Đó mới chỉ là hình tướng mà chưa có phần tâm linh. Khi giây thần kinh khứu giác của lỗ mũi tiếp xúc với mùi hương hoa trong chùa mới tạo ra sự rung động, những cảm giác vui hay buồn, dễ chịu và thanh thản thì đó gọi là thọ uẩn, tức là mới cảm nhận nhưng chưa có sự phân biệt được cái dễ chịu, vui buồn là như thế nào. Nhưng khi bộ óc và hệ thần kinh tiếp xúc với những cảm giác đó thì mới có tư tưởng tức là

3. Tầm quan trọng của Ngũ uẩn:

Có thể tóm tắt quá trình vận hành của ngũ uẩn như sau:

Quá trình vận hành của ngũ uẩn diễn ra tuần tự xuất phát từ các căn tiếp xúc với các trần tạo thành Một khi thân và khẩu tạo tác ra nghiệp thì tất cả những chủng tử thiện ác do nghiệp gây ra lại sẽ được chứa trở lại trong tàng thức của thức uẩn. Vậy thức uẩn là cái kho tàng chất chứa tất cả những chủng tử của kinh nghiệm, ký ức, kiến thức cùng với tất cả những chủng tử thiện, ác hay không thiện không ác từ trước tới nay. Do đó, cái nhân mà con người đã tạo tác được chứa trong tàng thức, một khi có đủ duyên thì sẽ phát khởi mà sinh ra quả báo thể hiện đúng theo quy luật của nhân quả.

Trong từng giai đoạn vận hành của ngũ uẩn, sự hình thành của từng uẩn đều tác động đến đời sống con người. Ví như giai đoạn Khi tâm ta thọ cái vui, cái sung sướng (tức lạc thọ) thì sẽ bị lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) lôi kéo làm cho tâm ta không sáng suốt, dễ mê lầm. Ví như mắt ta nhìn thấy những bông hoa đẹp ta thấy vui thích tức lạc thọ, muốn hưởng cái niềm vui đó mãi và vì vậy muốn ngắt những bông hoa đó về cho mình dù không phải là của mình. Cái lạc thọ đó đưa đến lòng tham. Hoặc khi ăn một món cao lương mỹ vị, của ngon vật lạ, ta thấy khoái khẩu, đó là lạc thọ và cứ muốn có mà ăn mãi. Và nếu không được ăn như thế luôn thì cảm thấy thiếu thốn, thèm khát. Nỗi thèm muốn đó thôi thúc làm mọi cách để thỏa mãn lòng tham muốn đó, sẽ gây ra những nghiệp gây hậu quả khổ sở sau này. Khi đi qua một người giàu sang có sức mùi nước hoa thơm nhẹ nhàng và quý phái, ta thèm muốn có được loại nước hoa đắt tiền đó để dùng, đó là lạc thọ, mà nếu không có được thì sinh ra buồn khổ day dứt, tự gây khổ cho mình. Do đó chạy theo lạc thọ là chay theo lòng tham muốn đưa đến nghiệp lực phải chịu quả khổ, chạy theo Vi vậy Đức Phật dậy hàng phật tử phải hiểu thật sâu rộng cái chữ thọ, phải thấy tác dụng của thọ uẩn đưa đẩy con người ta vào vòng sinh tử luân hồi như thế nào.

Trong bộ Lương Hoàng Sám có nói đến nguồn gốc của oán thù đau khổ như sau : “Chính vì mắt tham sắc, tai tham tiếng, mũi tham hương, lưỡi tham vị, thân tham xúc tế nhị nên chúng sinh thường bị các ngoại trần ràng buộc, nhiều kiếp ở trong đêm dài mờ mịt, không được giác ngộ và giải thoát”..

Đến đây, ta có thể thấy mấy vấn đề cơ bản sau :

- Sắc thân con người là phần vật chất cấu tạo do bốn yếu tố mà nhà Phật gọi là đất, nước, gió, lửa. Khoa học hiện đại gọi là bốn trạng thái hay bốn yếu tố chất rắn, chất lỏng, chất khí và chất nhiệt. Tuy nhiên thân cũng có hai phần là sắc thân tứ đại còn goi là phù trần căn và phần thứ hai gọi là tịnh sắc căn tức là hệ thống thần kinh não bộ. Vì vậy, khi con người ch*t, phần vật chất tức thân tứ đại ch*t ngay, tim ngừng đập, nhưng tịnh sắc căn chưa ch*t. Đạo Phật cho rằng phải ít nhất là tám tiếng đồng hồ sau đó thì tất cả các giây thần kinh mới ngừng hoạt động. Vì thế trong khi một người hấp hối cần có hộ niệm và khi tim ngừng đập, không còn hơi thở, phải chờ đến từ tám giờ đồng hồ trở lên mới được động đến thi thể để cho thần thức thoát ra ngoài được trọn vẹn.

- Phật giáo cho rằng phần tâm linh của con người gồm có 4 tâm khác nhau. Bốn tâm đó bao chứa tám thức của con người gọi là bát thức tâm vương:

+ + Tâm dẫn đầu các Pháp

Tâm làm chủ tạo tác.

Đối với tâm nhiễm ô

Nói năng hay hành động

Khổ não bước theo sau

Như bánh xe lăn theo

Dấu chân con vật kéo

(Pháp cú 1)

Tâm dẫn đầu các Pháp

Tâm làm chủ tạo tác.

Đối với tâm thanh tịnh

An lạc bước theo sau

Như bóng không rời hình

(Pháp cú 2)

Hai bài kệ trên là hai bài kệ mở đầu bản Kinh Pháp cú [2] cho ta thấy vai trò làm chủ của tâm, ý đối với thân và khẩu rất rõ ràng. Đồng thời cho thấy mối tương quan nhân quả từ nơi tâm ý con người mà có quả báo thiện hay ác. Do đó, hạnh phúc hay khổ đau đều từ tâm ý con người kiến tạo ra và phải thọ nhận.

Vì vậy người Phật tử hay hành giả có thể điều khiển được cái tâm, ý thức để thoát ly được sinh tử luân hồi, đi đến giải thoát, giác ngộ.

+ + Ngày nay khoa học cho rằng bộ óc con người là nơi dung chứa tất cả mọi sự hiểu biết của con người, nhưng giáo lý đạo Phật thì không cho là như vậy. Bởi vì nếu sự hiểu biết của con người chứa trong bộ óc thì khi con người ch*t, thân thể hủy diệt thì bộ óc cũng bị hủy diệt, vậy sự hiểu biết cũng phải hủy diệt theo. Nhưng trên thực tế, khi con người ch*t, bộ óc bị hủy diệt nhưng thần thức tức tất cả những chủng tử chứa trong tàng thức thoát ra khỏi xác chểt (ít nhất là sau tám tiếng đồng hồ) rồi bay vào không gian qua giai đoạn thân trung ấm để đầu thai vào thân xác mới. Nhiều cuốn sách nói về cái ch*t đã chứng minh điều đó. Đây là chỗ khác nhau giữa khoa học hiện đại và đạo Phật.

Chỗ khác nhau nữa giữa khoa học hiện đại với đạo Phật còn thể hiện ở chỗ : Những chứng minh của khoa học hiện đại nói về các bộ não siêu việt của các nhà bác học vĩ đại, cho rằng những bộ óc đó có rất nhiều ngăn tinh tế được sắp xếp một cách phức tạp hơn những bộ não bình thường và cho rằng đó là những ngăn chứa những tư tưởng khác thường, tạo ra những phát minh vĩ đại.

Nhưng đạo Phật cho rằng : trên thực tế, những phát minh mới lạ của các nhà bác học cũng phải trải qua rất nhiều công phu tìm tòi trong phòng thí nghiệm, phải giải quyết nhiều bài toán về toán học, vật lý học, hóa học, thiên văn vũ trụ học v.v…Mà muốn giải những bài toán ấy cũng phải dựa vào những cái đã có tức là những phát minh đã có, những bài toán đã có, những định đề, những định luật và định lý khoa học đã có từ trước mới phát triển lên và mới phát minh ra được.

Như vậy rõ ràng là phải có “những cái đã có” để mà so sánh phân biệt. Những cái đã có đó đã nằm trong tàng thức, bỏi vì muốn nhớ lại “những cái đã có” thì phải quay về cái kho chứa “những cái đã có” trong thức uẩn tức trong tàng thức mà ta thường gọi một cách tổng quát là những ký ức, kỷ niệm, kiến thức, kinh nghiệm và các chủng tử.

Điều trình bày trên cũng chứng minh cho lý thuyết duyên khởi của Đạo Phật. Đạo Phật nói rằng mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều phải có nhân và có duyên hòa hợp với nhau mới tạo thành. Vì vậy, các phát minh sáng tạo của các nhà bác học trong quá trình nghiên cứu đều phải quay về với những cái đã có trong tàng thức là Còn đối với một người bị bệnh thần kinh mất trí nhớ có nghĩa là một bộ phận trong bộ óc bị hỏng, nên họ có dùng tưởng uẩn để nhớ lại thì cũng không thể nào tìm được gì trong thức uẩn (tàng thức) vì tư tưởng tức tưởng uẩn của họ không còn tác động với bộ óc vì một bộ phận bộ óc bị hỏng, nên không vào được thức uẩn (tàng thức) để tìm kiếm so sánh phân biệt mặc dù thức uẩn tức tàng thức vẫn còn đó.

Tóm lại, khi con người sắp ch*t, thân tứ đại rã rời và rồi sắc uẩn ngừng hoạt động, hệ thần kinh cũng ngừng hoạt động nên không còn cảm nhận cảm giác tức là thọ uẩn cũng mất. Một khi bộ óc ngừng hoạt động thì tư tưởng cũng ngừng theo nên tưởng uẩn cũng biến mất. Do tưởng uẩn không còn nên hành uẩn cũng không còn nữa. Chỉ còn có thức uẩn là vô hình và không tùy thuộc vào bộ óc con người nên thức uẩn vẫn tồn tại khi thân xác con người bị hủy diệt. Cái thức uẩn bao gồm những kiến thức, kỷ niệm, ký ức, kinh nghiệm, thói quen và các chủng tử thiện ác vẫn tồn tại và thoát ra khỏi thân con người để đi vào một cõi khác.

Còn nữa...

Trích tập sách

Tuy nhiên cũng có nhà nghiên cứu xếp theo một thứ tự khác như trong chú thích ở điểm chú thích 1. Ngoài ra cũng có ý kiến cho rằng nên sắp xếp theo thứ tự sắc, thọ, thọ, tưởng, thức, hành.

Kinh Pháp cú là cuốn kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế bao gồm những lời dạy tinh túy về giáo lý và mang tính chất triết học cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Cuốn kinh này gồm 26 phẩm, 423 bài kệ. Ở Việt Nam cuốn kinh này đã được Hòa thượng Thích Thiện Siêu và Hòa thượng Thích Minh Châu dịch sang Việt ngữ.

Phạm Đình Nhân

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/ngu-uan-bai-hoc-ve-diet-kho-phan-3-d12322.html)
Từ khóa: bài học

Chủ đề liên quan:

bài học

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY