Liên quan đến vấn đề tự chủ tài chính theo đại biểu Trần Tất Thế (Hà Nam) cho rằng: Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Song, trong bối cảnh hiện nay, việc mở rộng quyền tự chủ đã xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các trường ĐH, trong quá trình tuyển sinh các trường ĐH sẽ ảnh hưởng đến chất lượng dạy và chất lượng học. Nếu tự chủ về tài chính học phí mà không có những tiêu chí quy định chung ngay trong luật sẽ dẫn đến tình trạng nhiều người nghèo mất cơ hội học tập vì học phí cao.
Còn đại biểu Hoàng Văn Hùng (Thái Nguyên) cho rằng: Tất cả những vấn đề liên quan tới nguồn thu của các trường ĐH cũng phải được các trường tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chúng tôi cho rằng đây là điều bứt phá của dự án Luật, tránh sự lệ thuộc vào nguồn ngân sách nhà nước. Nếu thông qua Luật GDĐH lần này, đây là điểm sẽ tạo được bước tiến phát triển rất tốt cho các trường ĐH hiện nay.
Liên quan đến vấn đề quy định đối với đào tạo nhân lực y tế, đại biểu Lê Thị Yến (Phú Thọ) cho rằng: Về quy định trình độ đào tạo của GDĐH tại Khoản 1 Điều 6 quy định “Các trình độ đào tạo của GDĐH quy định tại luật này bao gồm trình độ ĐH, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ”. Như chúng ta đã biết, nghề y là nghề đặc biệt, nhân lực y tế phải đáp ứng yêu cầu chuyên môn và y đức, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt để trở thành người bác sĩ hành nghề chuyên môn sau khi đã hoàn thành chương trình đào tạo 6 năm ở trường ĐH. Người học còn phải thường xuyên đào tạo, cập nhật, phát triển nghề nghiệp.
Trong 6 năm học tập để trở thành bác sĩ (BS) cũng không giống như những chương trình cử nhân khác. Chương trình đào tạo BS bao gồm các hợp phần thực hành và các giai đoạn trải nghiệm công việc trực tiếp tại các cơ sở y tế dựa trên các nền tảng lý thuyết. Nội dung chương trình đào tạo phức tạp hơn các chương trình cử nhân 4 năm, với thời gian đào tạo dài hơn từ 1 đến 2 năm. Sau đào tạo ĐH là đào tạo chuyên khoa sâu, có BS chuyên khoa 1, BS chuyên khoa 2 và BS nội trú. Riêng đối với đào tạo BS nội trú là 9 năm. Những đối tượng này không thể hòa cùng với trình độ và văn bằng là cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ được, nhưng trình độ và văn bằng chuyên sâu chưa được quy định trong Luật GDĐH trình lần này. Vậy, trình độ và văn bằng chuyên sâu sẽ được quy định ở luật nào?
Quy định như ở Khoản 1 Điều 6 cũng không nhất quán và đồng bộ tại Điều 73, vì, tại Điều 73 quy định giao cho Chính phủ quy định trình độ tương đương nhưng ở Khoản 1 Điều 6 lại không có. Chính phủ sẽ căn cứ vào đâu, vào cơ sở pháp lý nào để Chính phủ quy định. Đồng thời, nếu Điều 73 đã quy định giao cho Chính phủ quy định trình độ tương đương thì điều đó chứng tỏ Ban soạn thảo đã công nhận còn có những trình độ thuộc GDĐH mà không phải là cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ. Vậy, chương trình đào tạo BS chuyên sâu như BS chuyên khoa 1, BS chuyên khoa 2 và BS nội trú là tương đương với chương trình đào tạo nào và tương đương với văn bằng nào. Do đó, cần phải có quy định cụ thể riêng đối với đào tạo nhân lực y tế.
Từ những phân tích trên, tôi đề nghị bổ sung và sửa Khoản 1 Điều 6 thành: “Các trình độ đào tạo của GDĐH quy định tại luật này bao gồm trình độ ĐH, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ, trình độ chuyên gia. Chính phủ quy định trình độ chuyên gia đối với một số ngành đào tạo theo định hướng chuyên sâu đặc thù”.
Tham gia đóng góp ý kiến dự án Luật GDĐH liên quan tới đào tạo nhân lực y tế. Theo đại biểu Vũ Thị Nguyệt (Hưng Yên) cho rằng: Về trình độ và văn bằng GDĐH. Có thể nói đào tạo nhân lực y tế là loại hình đào tạo đặc biệt. Đặc biệt ở đây là đặc biệt cả về thời gian đào tạo, hình thức đào tạo cũng như văn bằng, chứng chỉ. Để trở thành bác sĩ hành nghề chuyên môn thì ngoài 6 năm được đào tạo trong trường ĐH cần phải thêm ít nhất từ 2-3 năm đào tạo chuyên sâu theo hướng đào tạo hàn lâm nghiên cứu gồm có thạc sĩ, tiến sĩ và hướng đào tạo hành nghề chuyên môn gồm chuyên khoa, chuyên khoa sâu như bác sĩ nội trú chuyên khoa I và chuyên khoa II. Bên cạnh đó, cán bộ y tế còn phải thường xuyên đào tạo cập nhật kiến thức và việc học đối với cán bộ y tế gần như suốt đời và không bao giờ là đủ.
Đối với loại hình đào tạo bác sĩ nội trú, có thể nói đây là nguồn nhân lực tinh túy, chất lượng cao của ngành y tế. đối với loại hình đào tạo chuyên khoa i, chuyên khoa ii, đây là đội ngũ cán bộ chủ lực trong công tác khám, điều trị, chăm sóc sức khỏe nhân dân ở các bệnh viện có đóng góp rất lớn trong việc thực hiện chuyên môn của ngành y tế. các loại hình đào tạo này đã tồn tại mấy chục năm nay, được hệ thống giáo dục xã hội và thế giới công nhận. bản thân tôi cũng là một bác sĩ chuyên khoa i, tôi rất băn khoăn khi trong dự thảo luật gdđh lần này bỏ mất trình độ và văn bằng chuyên sâu. trong khi thực tế, đây không phải vấn đề mới do thực chất điều 39 năm 1998 đã quy định và có những hướng dẫn cụ thể tại các văn bản dưới luật, nhưng không hiểu sao trong những luật sau thì không quy định loại hình đào tạo cũng như loại văn bằng này. tôi và rất nhiều cán bộ y tế trong ngành cảm thấy mình bị gạt ra khỏi hệ thống đào tạo chung và rất lo lắng khi không biết mình đang đứng ở đâu và được ai công nhận. nếu như trong dự luật lần này tiếp tục không quy định thì có thể phải 10 năm nữa những người như chúng tôi tiếp tục hành trình tìm lại chính mình, do đã bị pháp luật bỏ quên. do đó, tôi đề nghị ngay trong dự thảo luật lần này cần quy định rõ trong khoản 1 điều 6 trình độ tương đương với trình độ thạc sĩ, tiến sĩ hoặc trình độ chuyên gia, điều này cũng phù hợp với thực tiễn trong nước và trên thế giới.
Hai là về phân loại cơ sở GDĐH. Như đã nêu trên, trong đào tạo y khoa có 2 hướng là hàn lâm nghiên cứu và hướng đào tạo hành nghề chuyên nghiệp, cả 2 hướng này đều rất quan trọng và thực hiện đồng thời để đáp ứng yêu cầu của hệ thống. Nếu theo quy định tại Khoản 4 Điều 7 xác định cơ sở GDĐH định hướng nghiên cứu hoặc cơ sở GDĐH định hướng giáo dục, tôi lo ngại các cơ sở GDĐH chuyên về lĩnh vực y tế sẽ không biết xếp vào nhóm nào. Bởi các cơ sở GDĐH chuyên về lĩnh vực y tế thường đào tạo theo cả 2 hướng là đào tạo theo hướng nghiên cứu và đào tạo theo hướng ứng dụng, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu cân nhắc lại điều này.
Ba là về quản lý nhà nước, quản trị và tự chủ gdđh, trong dự thảo luật có tới 10 cụm từ “cơ quan có thẩm quyền”, tôi đề nghị làm rõ đó là những cơ quan nào. luật cũng cần có những quy định về vai trò các cơ quan chuyên ngành, đặc biệt là ngành y tế vì quá trình học tập gắn liền với các cơ sở y tế, đòi hỏi phải tuân thủ các quy định chuyên môn như luật khám bệnh, chữa bệnh, luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm, luật dược... các quy định về chuẩn chương trình kiểm định chất lượng, tổ chức đào tạo, giảng viên phải phù hợp với nguyên lý giáo dục, phù hợp với yêu cầu chuyên môn để không ảnh hưởng tới chất lượng chung của y tế. nếu chúng ta không quy định rõ sinh viên sẽ chỉ được học chay, các cơ sở y tế không hào hứng với việc tham gia đào tạo vì đây thực chất không phải là nhiệm vụ chính của họ. hệ quả là sẽ không thể có đội ngũ cán bộ y tế chất lượng đáp ứng yêu cầu nhất là trong bối cảnh mở trường, mở ngành trong đào tạo y tế nở rộ như hiện nay. do đó, tôi đề nghị các điều 33, 49, 54, 65, 68, 69 và điều 73 cần phải làm rõ. ví dụ, điều 32 quy định về tự chủ trong đó có mở ngành nhưng điều 33 quy định đối với mở ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe do bộ trưởng bộ và đào tạo quy định. như vậy, có thể hiểu các trường chuyên ngành y tế sẽ không được tự chủ và như vậy có thể có được tự chủ xác định mức thu học phí như quy định tại điểm a khoản 2 điều 65 hay không.
Tại Khoản 3 Điều 54 dự thảo đang quy định tiêu chuẩn giảng viên ĐH tối thiểu là thạc sĩ, tiến sĩ. Như vậy, trong các bệnh viện chủ yếu là những người có bằng chuyên khoa I, chuyên khoa II hay nội trú có trình độ chuyên môn tay nghề rất giỏi đang tham gia giảng dạy thì sẽ công nhận họ như thế nào?
Tóm lại, như đã nêu ở trên, đào tạo nhân lực y tế là vấn đề liên ngành, cần được thể chế hóa một cách rõ ràng, hướng tới mục tiêu cuối cùng là người dân được hưởng nền y tế có đội ngũ nhân lực được đào tạo bài bản, có chất lượng. do đó, tôi đề nghị quan tâm, xem xét, điều chỉnh, bổ sung để dự thảo luật được hoàn thiện và đặc biệt được sửa đổi điều 6, điều 38 và điều 73.