D3, aVL, V1, V2: đa số là dương nhưng cũng có thể âm nhẹ hay hai pha, P âm ở D3 nếu có kèm QRS3 và T3 âm hay biên độ thấp thì là do tư thế tim nằm: nếu cho bệnh nhân hít vào sâu, P, QRS và T sẽ có xu hướng biến thành dương. Còn P âm ở aVL nhiều khi lại là do tư thế tim đứng.
Ở các chuyển đạo thực quản và trong buồng nhĩ, sóng p cao gấp 10 lần p2 và có hình dạng giống như một phức bộ qrs.
Thời gian tức là bề rộng của P thường cũng tiêu biểu (lớn nhất) ở D2. P tiêu biểu có bề rộng trung bình là 0,08s, tối đa 0,11s, tối thiểu 0,05s. Ở trẻ em, thời gian P thường ngắn hơn ở người lớn.
Âm, dẹt < 0,5mm và hẹp < 0,05s, hai pha (ở các chuyển đạo đáng lý nó phải dương), chẻ đôi hay có móc sâu, méo mó, trát đậm hay dày cộm → ta phải nghĩ đến một tổn thương cục bộ ở nhĩ hay dày giãn nhĩ, hoặc một rối loạn nhịp tim (nhịp nút, rung nhĩ…).
P cao > 2,5mm và nhọn: Nghĩ đến dày nhĩ phải rồi đến dày nhĩ trái, bệnh tim có tím (thiếu oxy nặng). Khi tim bị kích động hay nhịp nhanh, P cũng có thể cao nhưng thường không quá 2,5mm.
Khi p biến mất (p đồng điện): khi p đồng điện ở tất cả các chuyển đạo thì phải áp dụng các biện pháp tìm p (xem mục rối loạn nhịp tim), nhất là ở các chuyển đạo thường có p rõ nhất như: d2, v1, x1, v3r, s5, vœ, chuyển đạo trong buồng tim…, và nếu cần thì cho làm nghiệm pháp gắng sức, tiêm atropin, ấn xoang cảnh để thấy rõ p hơn. việc xác định bản điện tâm đồ đó có p hay thật sự không có p có một tầm quan trọng rất lớn, nhất là trong việc chẩn đoán các rối loạn nhịp tim.
Nguồn: Internet.