Streptokinase cố định |
250.000 UI |
L-glutamate de sodium |
25 mg |
Dung dịch polygéline 10% tức là bằng polygéline* |
25 mg |
Dung dịch albumine người 20% tức là bằng albumine |
100 mg |
Hydroxyde de sodium lượng vừa đủ |
pH 7,2 |
Streptase 750.000 UI: Mỗi 1 chai |
|
Streptokinase cố định |
750.000 UI |
L-glutamate de sodium |
25 mg |
Dung dịch polygéline 10% tức là bằng polygéline* |
25 mg |
Dung dịch albumine người 20% tức là bằng albumine |
100 mg |
Hydroxyde de sodium lượng vừa đủ |
pH 7,2 |
Streptase 1.500.000 UI: mỗi 1 chai |
|
Streptokinase cố định |
1.500.000 UI |
L-glutamate de sodium |
25 mg |
Dung dịch polygéline 10% tức là bằng polygéline* |
25 mg |
Dung dịch albumine người 20% tức là bằng albumine |
100 mg |
Hydroxyde de sodium lượng vừa đủ |
pH 7,2 |
Streptokinase, chất làm tan huyết khối, là một protéine rất tinh khiết, chiết từ dịch lọc canh cấy liên cầu tán huyết bêta thuộc nhóm C.
Sau khi bị trung hòa bởi các kháng thể lưu hành nếu có, streptokinase hoạt hóa hệ thống S*nh l* làm tan fibrine : một phân tử streptokinase và một phân tử plasminogène kết hợp để thành lập phức hợp hoạt hóa plasminogène ; chất này tác dụng lên một số lớn phân tử plasminogène, biến đổi chúng thành plasmine. Tác dụng ly giải protéine của plasmine không chỉ thực hiện trên fibrine của huyết khối mà luôn cả trên fibrinogène lưu hành. Một chất hoạt hóa khác của plasminogen là phức hợp streptokinase-plasmin.
Khi bắt đầu điều trị, nồng độ streptokinase trong huyết tương giảm rất nhanh chóng (thời gian bán hủy khoảng 10 phút), do sự trung hòa của các kháng thể kháng streptokinase gần như thường xuyên hiện diện vì thường nhiễm liên cầu tán huyết. Tiếp sau sự trung hòa, thời gian bán hủy của streptokinase là khoảng 80 phút.
Thuốc được thải qua nước tiểu. Tuy nhiên tác dụng trên sự đông máu k o dài hơn nhiều (xem Ngưng điều trị trong Chú { đề phòng và Thận trọng lúc dùng).
Nhồi máu cơ tim mới: Giảm tỉ lệ Tu vong ở những bệnh nhân được điều trị sớm, nhất là trong 6 giờ đầu.
Hiệu quả càng cao khi điều trị càng sớm (đặc biệt khi Streptase được dùng ngay giờ đầu). Hoạt tính có vẻ như vẫn còn giữa giờ thứ 6 và giờ thứ 12.
Can thiệp bằng phẫu thuật, tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt vết mổ có thể đè ép được hoàn toàn, có thể rút ngắn thời hạn này.
Chống chỉ định trong trường hợp tỉ lệ prothrombine giảm, hoặc thời gian Howell hay céphalinekaolin kéo dài, trừ trường hợp trước đó có dùng Thuốc kháng vitamine K hay héparine. Khi đó, nên đợi vài giờ hay có thể tiến hành điều trị đồng thời bù trừ hay trung hòa sự thiếu hụt.
Mỗi khi sử dụng, nên cân nhắc kỹ giữa nguy cơ của việc điều trị và những lợi điểm mong muốn, đặc biệt khi có cùng một lúc.
Streptase có thể mất hiệu lực nếu được dùng kể từ sau 5 ngày sau lần tiêm Streptase hay streptokinase đầu tiên vì có thể có hiện tượng kháng Thuốc do kháng thể kháng streptokinase, đặc biệt sau 5 ngày đến 12 tháng, hay sau nhiễm trùng liên cầu khuẩn mới đây. Thêm nữa, nồng độ kháng thể kháng streptokinase cao có thể làm tăng nguy cơ dị ứng khi dùng Thuốc trở lại.
Chỉ được dùng Thuốc nếu có sự theo dõi chặt chẽ, có phương tiện hồi sức. Trường hợp trước đó được điều trị với Thuốc kháng vitamine K hay héparine: xem Chống chỉ định sinh học. Khi đang điều trị, tuyệt đối chống chỉ định: tiêm bắp và chọc động mạch (trong những vùng mà động mạch không thể đè ép được).
Đo thời gian thrombine máu và (hay) nồng độ fibrinogène có thể cho phép kiểm tra, ngay từ cuối giờ thứ nhất, hiệu quả sinh học của việc điều trị. Nồng độ fibrinogène lúc đó có thể gần 0 g/l. Thường vào khoảng giữa giờ thứ 6 và giờ thứ 9, nồng độ fibrinogène lên trở lại trên 1 g/l thời điểm có thể chuyển sang điều trị tiếp theo bằng héparine.
Có thể dự kiến nhiều phác đồ khác nhau để tránh tạo huyết khối trở lại trong các mạch vành đã được thông và tránh sự tái phát hoặc lan rộng của nhồi máu.
Cách điều trị tiếp theo cổ điển với h parine được tiến hành vào giờ thứ 6 đến thứ 9 (xem Theo dõi điều trị) sau khi ngưng tiêm truyền streptokinase, lúc đầu với liều vừa (75 đến 150 mg/24 giờ) rồi đến liều hữu hiệu [tùy thuộc thời gian Howell hay céphaline-kaolin (gấp 2 lần trị số chứng) khi fibrinogène đã vượt quá 1 g/l.
Trong một nghiên cứu có kiểm chứng, phối hợp streptokinase tiêm tĩnh mạch và aspirine uống cho thấy có hiệu quả, với aspirine (160 mg/ngày) dùng càng sớm càng tốt. Tỉ lệ Tu vong có giảm vào thời điểm 1 tháng và một năm.
Có thể phối hợp như trên và có vẻ không làm tăng nguy cơ xuất huyết. Ngưng điều trị tức khắc và (hay) điều chỉnh tình trạng ly giải fibrine trong trường hợp bị biến chứng xuất huyết.
Có thể ức chế sự ly giải fibrine bằng cách tiêm acide epsilone-aminocaproique (4 g, tiêm tĩnh mạch, sau đó có thể truyền tĩnh mạch 1 g/giờ) và/hay Thuốc ức chế protéase (trung bình 50.000 đơn vị U.I.K/giờ, đường tĩnh mạch) cho đến khi ức chế hoàn toàn các men ly giải fibrine. Trước khi mổ cấp cứu cho bệnh nhân đang được điều trị với streptokinase, đều phải dùng Thuốc ức chế sự ly giải fibrine. Ngoài ra, trước khi mổ cũng phải điều chỉnh tình trạng hạ fibrinogène máu và các rối loạn đông máu có thể có bằng cách truyền fibrinogène, huyết tương tươi, hoặc máu tươi toàn phần.
Tuy có thể dùng streptokinase trong lúc mang thai, nhưng phải thảo luận cho từng trường hợp nếu thai dưới 5 tháng, và tránh dùng, nếu mới sẩy thai hay ngay sau khi sanh.
Tăng nguy cơ xuất huyết khi phối hợp với Thuốc chống đông (h parine, kháng vitamine K) hay chống ngưng tập tiểu cầu. Tuy nhiên, aspirine ở liều thấp (100 đến 160 mg/ngày), có tác dụng giảm tỉ lệ Tu vong, cộng vào với tác dụng của streptokinase (xem Điều trị tiếp theo), mà không làm tăng nguy cơ xuất huyết nặng.
Khi bắt đầu điều trị có thể có phản ứng không dung nạp tạm thời. Đó là sự phối hợp theo nhiều kiểu khác nhau của :
Ở giai đoạn cấp của nhồi máu cơ tim, sau khi thông mạch vành, đồng thời với giảm đau, thường thấy một cơn loạn nhịp hồi phục tự nhiên (loạn nhịp do tưới máu trở lại). Xuất huyết nhẹ không đáng kể (chảy máu ở điểm tiêm), hiếm gặp hơn là xuất huyết nội tạng hay thanh mạc (xem Thận trọng lúc dùng).
Cũng đã xảy ra biến chứng thuyên tắc phía dưới do sự di chuyển và (hay) vỡ huyết khối hay một mảng xơ cứng.
Tăng bạch cầu đa nhân trung tính có thể kèm theo phản ứng không dung nạp sớm. Hiếm gặp trường hợp tăng tế bào lympho tương đối hay tăng tương bào.
Chỉ được dùng Thuốc tại bệnh viện dưới sự theo dõi chặt chẽ và có phương tiện hồi sức. Bột đông khô được pha trong những dung dịch natri clorid hay glucose đẳng trương.
Liều tấn công: Truyền tĩnh mạch 250.000 UI trong 100-300 ml dung dịch muối S*nh l* hay glucose 5% trong 30 phút.
Liều tấn công: Truyền tĩnh mạch 250.000 UI trong 100-300 ml dung dịch muối S*nh l* hay glucose 5% trong 30 phút.
Liều duy trì: 100.000 UI/giờ, bắt đầu ngay sau liều tấn công. Liều duy trì được tiếp tục tùy theo kết quả.
Streptokinase làm tăng plasmine huyết do sự tiêu thụ tiền chất (plasminogène). Do đó, dùng quá liều sẽ không gây hậu quả gì vì tiền chất không còn nữa.
Nguồn: Internet.