Ni Sư Diệu Nhân, người nữ Phật tử đầu và cũng là vị nữ sĩ ban đầu trong nền Văn Học Việt Nam. Dù chỉ một bài thi kệ, nhưng với một bài thôi, một lời thôi đã để lại dấu ấn đậm sâu, thắm đượm mãi trong lòng người đến tận hôm nay và ngày mai. Chừng đó, chỉ chừng đó, với chừng đó, cũng đủ bặt ngôn trọn ý, phủ trùm lên cõi tử sinh vô tận, đong đầy kín lối nẻo nhân gian, đưa đường dẫn lối chúng ta, từ sông mê bể khổ, tìm về bờ giác.
Ni Sư Diệu Nhân (1042 - 1113) thế hệ thứ 17 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Tên húy là Lý Ngọc Kiều ở làng Hương Hải, Phù Đổng, huyện Tiên Du. Bà là con gái lớn của Phụng Càn Vương Lý Nhật Trung, được vua Lý Thánh Tông nuôi ở trong cung từ nhỏ, lớn lên phong làm công chúa. Ngôn hạnh đoan trang, thuần hậu, bà được vua gả cho người họ Lê, không rõ tên, làm quan Châu Mục ở Chân Đăng, chồng mất bà thủ tiết không chịu tái giá. Một hôm bà nói: “Ta xem tất cả các pháp trong thế gian đều như mộng ảo, huống gì những thứ vinh hoa phù phiếm mà có thể trông cậy được hay sao?”
Từ đó bà đi xuất gia, thọ giới với thiền sư chân không ở làng phù đổng, được thiền sư ban cho pháp danh diệu nhân, một bậc mẫu mực đức độ trong ni chúng thời ấy. vào ngày mồng một tháng sáu năm hội trường đại khánh thứ 4 (1113) đời vua lý nhân tông, một hôm sư lâm bệnh gọi tăng chúng đến đọc bài kệ thị tịch, sau đó sư tắm gội sạch sẽ, rồi ngồi kiết già viên tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.
Ngô đức thọ, nguyễn thúy nga dịch, thiền uyển tập anh, trang 235. trong sách thiền sư việt nam, thiền sư thích thanh từ dịch bài kệ thị tịch, trang 163 như sau:
Từ cô công chúa đến thiền sư, từ nữ nhi cao sang quyền quý đến bậc xuất trần, một bước nhảy tâm linh cao tột, như đường tơ kẽ tóc, như nhát kiếm chém phăng vào dòng nước không để lại dấu, cánh nhạn vượt trời không, lặng thinh phổ cập, một sự đến đi trong vô cùng không tận, không nghĩ chẳng bàn. Đọc bài thơ trên, chiêm nghiệm từng lời từng chữ, mỗi câu mỗi chữ là cả một sự đánh động vào tâm thức, thấm sâu lắng đọng, một sự đập thẳng dội mạnh vào tâm ý, sự khẳng định xác quyết về chân lý như thật, sự có mặt của tướng trạng, sự biến đổi của vô thường, chặng đường sanh lão bệnh tử của kiếp nhân sinh, là sự hẳn nhiên, điều tự nhiên, là lẽ thường.
Nhìn từ bình diện tỷ giảo, thước đo tâm thức, so sánh đối thoại, thì thấy như vậy, có cảnh có người, có sinh có tử, có khổ có đau, và cũng vậy có sanh nên mới có tử, có thân ắt có bệnh, có già đương nhiên phải có ch*t, không gì khác hơn. Ở khía cạnh tâm linh giác ngộ, nhận biết bản thể như thật của các pháp, thì không có tướng trạng, năng sở, đến đi, sanh diệt, còn mất, già ch*t, một sự thường hằng phổ cập, bất sinh trong sự sinh diệt, chân thường trong cõi vô thường, an bình trong sự biến động.
Sanh, lão, bệnh, tử, là danh từ trong nhà Phật, không phải sản phẩm của Đạo Phật. Đó là nguyên lý tự nhiên, lẽ thường, vốn như thế, sẵn như vậy, có như vậy, và như vậy, không gì có thể làm thay đổi, không ai có thể mặc cả trả giá, vì là như vậy, chỉ có vậy, nên phải như vậy, chỉ vậy mà thôi. Bài thơ ấy, lời thơ ấy, thi kệ ấy, khiến ta nhìn thẳng, trực nhận thẳng vào thực tại, sáng tỏ trên dòng nhân sinh, hòa nhập với quy luật tự nhiên, hẳn nhiên của kiếp người, đất trời thi nhau phổ nhịp, thuận theo duyên theo, những nổi trôi đẩy đưa, vươn lên thoát khỏi thân phận mong manh, thong dong về miền xa thẳm, cuốn hút ở trời không, phổ giai điệu lên từng cung bậc, mở ra phương trời lắng đọng, một cõi thênh thang rộng mở.
Lời thơ đó, sự dứt khoát rõ ràng và trong sáng, nhẹ nhàng và bất tận, một sớm mai bình minh trỗidậy, xô đẩy bóng đêm, đẩy lùi bóng tối, khoát lên tâm thức trinh nguyên, sự an lạc thường hằng. Sợi nắng soi mình qua khe hở, giọt buồn rụng xuống nhân gian, lời thơ chắp cánh trên từng đi lại, cõi nhân sinh sâu thẳm đợi chờ. Bốn chặng đường sinh, lão, bệnh, tử, phải tới, phải đi, phải bước qua, có chặng nào ta trốn được. Vậy phải thích nghi, dấn bước, tùy duyên hành xử, duyên đến duyên đi cứ mặc cho duyên xoay vần. Điều quan trọng, là những tác tạo huân tập vào chủng tử, sự tỉnh thức và giác ngộ, hành trang cưu mang nặng hay nhẹ, có hay không, nhiều hay ít, chỉ có chính ta mới đủ thẩm quyền định đoạt.
Bài thơ đó, lời kinh đó, thi nhau gõ nhịp, in dấu trên từng tâm thức, bay bổng lên từng thận phận, sương khói mong manh, dòng đời, dòng thời gian, trông xa về cố quận, tâm thức trỗi dậy, nhịp sống của hôm qua và bây giờ, khúc ly biệt não nề vấn vương, sầu lo xa xăm tìm về chốn cũ.
Hai câu kết ni sư dạy chúng ta, nếu không hướng ra ngoài để cầu phật cầu thiền thì tâm an nhiên lặng lẽ. tâm an nhiên lặng lẽ thì không còn gì để trình thưa, không còn gì để đàm luận nên nói nhọc miệng không lời, nói ra là mỏi miệng. đa số chúng ta thì không sợ cái miệng nhọc mà thích nói đủ thứ, nên không có giây phút nào yên lặng và thân tâm luôn luôn trạo cử rộn ràng. đây là bài kệ ý nghĩa thâm trầm của một thiền sư ni việt nam đã thấy đạo đến chỗ rốt ráo.