Tiêu chảy thường có liên quan đến nhiễm khuẩn nhưng cũng có thể do tích lũy trong khoang bụng những dịch có áp suất thẩm thấu cao không hấp thụ được như trong trường hợp thiếu hụt lactose hoặc do những kích thích ở dạ dày-ruột, không do các độc tố vi khuẩn,
Tiêu chảy thường có liên quan
đến nhiễm khuẩn nhưng cũng có thể do tích lũy trong khoang bụng những dịch có
áp suất thẩm thấu cao không hấp thụ được như trong trường hợp thiếu hụt lactose
hoặc do những kích thích ở dạ dày-ruột, không do các độc tố vi khuẩn, cũng có
thể tiêu chảy là do ruột có cấu tạo hoặc khả năng nhu động không bình thường.
Khi mắc tiêu chảy, người bệnh cần được điều trị kịp thời và đúng thể bệnh.
Tiêu chảy cấp tính
Bù nước và điện giải
Mất nước và điện giải có thể
gây Tu vong ở trẻ em. Bổ sung nước theo đường uống để chống mất nước và điện
giải do tiêu chảy là liệu pháp cơ bản. Dung dịch gồm các chất điện giải chủ yếu
(natri, kali, chlorid, bicarbonat hay citrat) và glucose, dùng cho bệnh nhân ở
bất kỳ tuổi nào hay tiêu chảy do bất kỳ nguyên nhân nào. Thành phần có thể thay
đổi nếu trẻ suy dinh dưỡng, có thể bổ sung kẽm trong tiêu chảy cấp tính. Thành
phần hợp lý của dung dịch bổ sung nước theo đường uống như sau: glucose tạo
điều kiện chuyển vận tích cực các chất điện giải. Sự hấp thụ các chất điện giải
là tốt nhất khi tỷ số mol của glucose trên natri vào khoảng 1:1. WHO khuyến
nghị, 1 dung dịch chứa 90mmol natri và 111mmol glucose/lít. Loại chế phẩm này
được dùng ở các nước đang phát triển, ở đó, tiêu chảy thường có nguyên nhân
nhiễm khuẩn. Khi bổ sung nước đã đủ, có thể dùng nước để pha loãng dung dịch để
hạ nồng độ natri xuống còn khoảng 60mmol/lít để tiếp nước duy trì. Ở những nước
đã phát triển, tiêu chảy do virut hay gặp hơn và gây thiếu chất điện giải ít
hơn. Loại bán ở thị trường Anh có chứa 35 - 60mmol natri và 90 - 200mmol
glucose/lít. Loại mà nồng độ natri thấp hơn thì glucose cao hơn nhằm đảm bảo
tính đẳng trương của dung dịch.
Có một số bằng chứng cho thấy
rằng dung dịch có nồng độ natri thấp tốt hơn, tuy nhiên, về vấn đề này cũng còn
có nhiều tranh cãi như cần cho thêm citrat hay bicarbonat. Dung dịch nước ngũ
cốc đun sôi để nguội có thể tốt hơn glucose, làm tiêu chảy chóng khỏi hơn nhưng
cũng có ý kiến cho là dung dịch glucose kết hợp với cho ăn uống sớm thì kết quả
cũng ngang với dung dịch ngũ cốc. Tổng kết lại thì thấy dùng nước cháo gạo để
bổ sung nước là tốt nhất cho các trường
hợp tiêu chảy thông thường. Đối với bệnh nhân tiêu chảy do tả thì vẫn nên dùng
dung dịch WHO đề xuất. Nếu không có thì có thể thay thế bằng nước dừa, nước
cháo gạo, súp, nước chè loãng và dung dịch đường với một số muối. Các loại nước
giải khát ngọt có độ pH thấp và nồng độ molal cao có thể làm tiêu chảy nặng
thêm.
Khi mất nước nặng do tiêu
chảy cấp tính (quá 10% thể trọng) phải tiếp nước qua đường tiêm tĩnh mạch, tốt
nhất với dung dịch ringer lactat. Tiếp nước đường tĩnh mạch cũng là cần thiết
khi bệnh nhân không uống được.
Việc tiếp nước theo đường
tĩnh mạch phải kết hợp với dinh dưỡng, đặc biệt với trẻ em để chống suy dinh
dưỡng, do ăn uống không đủ khi bị bệnh, vẫn cho trẻ bú mẹ. Trong trường hợp
dùng sữa bò, có ý kiến nên pha loãng hơn nhưng cũng có ý kiến không cần thiết
phải như vậy. Không nên kiêng hoàn toàn khi bị tiêu chảy, với trẻ em cũng như
người lớn, vì ăn có thể làm giảm đại tiện, rút ngắn thời gian tiêu chảy.
Thuốc điều trị
Theo WHO, việc
dùng Thuốc
chống tiêu chảy có rất ít tác dụng; việc
dùng Thuốc không làm giảm được sự mất
nước và mất chất điện giải mà lại làm chậm sự tống xuất các vi sinh vật là
nguyên nhân gây bệnh ra ngoài.
Khi buộc phải
dùng Thuốc thì
dùng những loại Thuốc dưới đây:
Nhóm Thuốc chống tiêu chảy
chính là các chất hấp thụ như attapulgit, kaolin, pectin và nhóm các Thuốc làm giảm
nhu động ruột như diphenoxylat, loperamid và codein. Các Thuốc nhuận tràng tạo
khối phân lớn cũng được dùng như methylcellulose do tính chất hấp thụ của
chúng. Bismuth salicylat cũng hay được dùng. Chất ức chế calmodulin là zaldarid
có hiệu quả làm giảm triệu chứng tiêu chảy.
Các Thuốc kháng khuẩn và
kháng động vật nguyên sinh thường dùng để dự phòng và điều trị bệnh tiêu chảy,
nhưng việc lạm dụng chúng sẽ sinh ra hiện tượng kháng Thuốc. Do vậy, nên dùng
để phòng bệnh cho người lớn có sức khỏe kém, sống trong những vùng điều kiện
thức ăn và nước uống kém vệ sinh và bệnh nhân cần phải di chuyển, không chờ đợi
được.
Tiêu chảy mạn tính
Thường có liên quan đến một
bệnh nào đó nên việc chữa triệu chứng tiêu chảy không thích hợp bằng chữa
nguyên nhân gây bệnh. Ví dụ như cholestyramin chữa tiêu chảy liên quan đến sự
hấp thu các acid mật kém. Khi không loại trừ được bệnh đã gây ra tiêu chảy mạn
tính thì có thể chữa triệu chứng như tiêu chảy ở người bệnh đái tháo đường.
DS. Phạm Thiệp