Hầu hết các loại Thuốc trước khi đưa ra thị trường đều không được thử nghiệm về tính an toàn ở phụ nữ có thai vì lý do đạo đức, các thông tin phần lớn đều chỉ được thu thập qua các nghiên cứu trên động vật thí nghiệm, do đó, độ tin cậy cũng có nhiều hạn chế.
Trước đây, các bất thường của
thai nghén được cho là có nguồn gốc di truyền. Tuy nhiên, quan điểm này đã thay
đổi từ năm 1961 khi Lenz ở Tây Đức và McBride ở Australia đã có những báo cáo
độc lập với nhau ghi nhận rằng thalidomide, một Thuốc an thần được kê khá phổ
biến khi đó, có thể gây những vấn đề trầm trọng cho sự phát triển của phôi thai
khi được uống ở tuần thứ 20 - 36 của thai. Kể từ đó, sự an toàn của các loại Thuốc
đối với
thai nghén đã trở thành một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu
của y học và xã hội.
Hầu hết các loại Thuốc trước
khi đưa ra thị trường đều không được thử nghiệm về tính an toàn ở phụ nữ có
thai vì lý do đạo đức, các thông tin phần lớn đều chỉ được thu thập qua các
nghiên cứu trên động vật thí nghiệm, do đó, độ tin cậy cũng có nhiều hạn chế.
Các Thuốc dùng trong điều trị viêm mũi cũng không phải là ngoại lệ, các thầy
Thuốc lâm sàng thường gặp không ít khó khăn khi quyết định lựa chọn sử dụng các
Thuốc này ở phụ nữ mang thai, dựa trên những thông tin có được hiện nay. Các
khảo sát gần đây ở nhiều quốc gia khác nhau cho thấy, viêm mũi gặp ở khoảng
20-30% số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và là một trong những nhóm bệnh lý
thường gặp nhất trong thời kỳ mang thai. Các thay đổi về miễn dịch trong thời
kỳ này cũng gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng viêm mũi của thai phụ.
Theo các hướng dẫn điều trị viêm mũi hiện nay, có 4 nhóm Thuốc chính được sử
dụng.
Thuốc kháng histamin
Các dữ liệu có được cho đến
nay đều góp phần khẳng định tính an toàn của các Thuốc kháng histamin thế hệ cũ
với
thai nghén, bao gồm chlorpheniramin, triprolidin, tripelennamin và
hydroxyzin, không có Thuốc nào trong số này làm tăng nguy cơ dị dạng thai. Mặc
dù có những thông tin từ một vài nghiên cứu gợi ý rằng các Thuốc
brompheniramin, diphenhydramin và promethazin có thể làm tăng nguy cơ bất
thường thai, tuy nhiên, nhiều nghiên cứu sau đó về vấn đề này đã chứng minh
điều ngược lại. Các Thuốc kháng histamin thế hệ 2 mới được đưa vào sử dụng gần
đây nên cũng có ít hơn những thông tin về độ an toàn với
thai nghén. Một vài
nghiên cứu trên số lượng lớn phụ nữ mang thai có sử dụng clemastin, cetirizin
và terfenadin trong những tháng đầu của thai kỳ để điều trị dị ứng đã cho thấy,
các Thuốc này không làm tăng nguy cơ của các bất thường thai như đẻ non, chậm
phát triển thai, ch*t trước sinh hoặc dị tật thai so với những người không dùng
Thuốc. Với hoạt chất loratadin, một nghiên cứu trên 1.769 phụ nữ có sử dụng
Thuốc trong thời gian mang thai đã phát hiện thấy tỷ lệ trẻ nam đẻ ra có dị
dạng lỗ niệu đạo thấp nhiều gấp 2 lần so với tỷ lệ chung trong cộng đồng. Tuy
nhiên, các nghiên cứu đa trung tâm sau đó đã không tìm thấy sự khác biệt nào về
tỷ lệ đẻ non, dị tật thai hoặc trọng lượng thai lúc sinh giữa các bà mẹ có và
không sử dụng loratadin trong thời gian mang thai, cũng không có trường hợp nào
bị dị dạng lỗ niệu đạo thấp được phát hiện.
Thuốc kháng leukotrien
Các thông tin có được cho đến
nay còn quá ít để có thể đưa ra kết luận về tính an toàn của nhóm Thuốc này đối
với
thai nghén. Trong các nghiên cứu đã được công bố, số phụ nữ mang thai có
tiếp xúc với các Thuốc kháng leukotrien được khảo sát là quá nhỏ để có thể đánh
giá nguy cơ gây đẻ non hoặc chậm phát triển thai của các Thuốc này.
Thuốc co mạch
Trong số các Thuốc co mạch
đường uống, một vài nghiên cứu cho thấy, phenylephrin và pseudoephedrin có thể
có liên quan với dị tật nứt ổ bụng bẩm sinh và tịt ruột non khi được sử dụng
trong thời kỳ mang thai. Tuy nhiên, một số nghiên cứu sau đó lại không cho thấy
mối liên quan này. Ngoài ra, do phenylephrin và pseudoephedrin thường được bào
chế trong dạng phối hợp với các Thuốc khác như paracetamol, clorpheniramin… nên
khó có thể kết luận về mối quan hệ nhân quả giữa việc sử dụng các Thuốc này với
nguy cơ dị tật của thai. Các Thuốc co mạch dạng nhỏ mũi như oxymetazolin,
xylometazolin, tetryzolin, nephazolin và phenylephrin cũng được một số nghiên
cứu chứng minh là không có nguy cơ gây ra hai loại dị tật kể trên, mặc dù qui
mô của các nghiên cứu này còn tương đối nhỏ.
Corticoid xịt mũi
Số lượng các nghiên cứu về độ
an toàn của corticoid xịt mũi đối với
thai nghén còn tương đối hạn chế. Tuy
nhiên, với các kết quả nghiên cứu có được cho đến nay kết hợp với thông tin từ
các nghiên cứu về corticoid xịt ở bệnh nhân hen phế quản, có thể nhận định rằng
ở liều điều trị thông thường, hầu hết các loại corticoid xịt mũi sử dụng phổ
biến hiện nay như beclomethason dipropionate, budesonide, triamcinolon
acetonide, fluticason propionate và mometason furoate không gây ra các bất
thường thai, kể cả khi được sử dụng ở 3 tháng đầu của thai kỳ. Tuy nhiên, cũng
cần lưu ý giảm corticoid xịt mũi về liều thấp nhất có thể khi sử dụng ở phụ nữ
có thai.
Tóm lại, đối với phụ nữ mang
thai, cần hết sức lưu ý bảo vệ sức khỏe khống chế các bệnh mạn tính và tránh
mắc phải các bệnh cấp tính. Khi có bất cứ vấn đề gì về sức khỏe, cần được khám
xét và điều trị an toàn hợp lý, hạn chế đến mức thấp nhất việc phải dùng đến
các Thuốc chữa bệnh, kể cả Thuốc dùng ngoài như Thuốc bôi, Thuốc xịt.
BS. Nguyễn Hữu Trường