Xử trí cấp cứu một trẻ cần phải đánh giá nhanh và can thiệp kịp thời. Các bước tiếp cận một trẻ bị bệnh nặng gồm:
Nếu không có bằng chứng chắc chắn về sự lưu thông của đường thở thì làm kỹ thuật ấn hàm và nâng cằm, sau đó đánh giá lại. Nếu đường thở vẫn chưa lưu thông thì có thể tiến hành mở miệng bệnh nhân và thổi ngạt.
Bằng các kỹ thuật: nhìn, nghe và cảm nhận mà thấy đường thở không thông thoáng thì có thể mở thông đường thở bằng: Kỹ thuật nâng cằm và ấn hàm
Đường thở thông thoáng chưa chắc thông khí đã đầy đủ. Thông khí chỉ đạt được hiệu quả khi có sự phối hợp của trung tâm hô hấp, phổi, cơ hoành và các cơ lồng ngực.
Sử dụng oxy lưu lượng cao (15 lít/phút) cho những bệnh nhân có rối loạn hô hấp hoặc thiếu oxy tổ chức. Những bệnh nhân có suy hô hấp cần được thông khí với oxy qua mặt nạ có van và túi hoặc đặt ống nội khí quản và cho thở áp lực dương ngắt quãng.
Tất cả các trường hợp suy tuần hoàn (sốc) nên được cho thở oxy qua mặt nạ, hoặc qua ống nội khí quản (nếu cần phải đặt ống để kiểm soát đường thở).
Sử dụng đường truyền tĩnh mạch hoặc đường truyền trong xương để truyền ngay dung dịch điện giải hoặc dung dịch keo với lượng dịch là 20ml/kg và lấy các mẫu máu xét nghiệm ngay thời điểm này.
Thiếu oxy tổ chức hoặc sốc đều có thể gây rối loạn ý thức. Vì vậy cần đánh giá theo ABC trước khi xem xét các rối loạn ý thức là do nguyên nhân thần kinh. Thêm nữa, cần làm test đường máu trước bất cứ trẻ nào có suy giảm tri giác hoặc co giật.
Nếu bệnh nhân có rối loạn ý thức ở mức độ P hoặc U (chỉ đáp ứng với đau hoặc không đáp ứng), phải cân nhắc đặt ống nội khí quản để kiểm soát đường thở. Điều trị hạ đường huyết bằng dung dịch glucoza 10% 2ml/kg. Trước khi truyền đường, lấy máu xét nghiệm đường và các xét nghiệm.
Chỉ được thực hiện sau khi đã tiến hành đánh giá ban đầu và điều trị các dấu hiệu đe doạ tính mạng. Đánh giá bước hai gồm hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng và làm các xét nghiệm đặc hiệu. Do thời gian có hạn nên việc tiếp cận phải tập trung vào những vấn đề thiết yếu. Khi đánh giá bước hai xong, bác sỹ phải hiểu hơn về bệnh của trẻ và có chẩn đoán phân biệt. Việc điều trị cấp cứu ở giai đoạn này là phù hợp, cả điều trị tình trạng chuyên biệt (như hen phế quản) lẫn điều trị hội chứng (tăng áp lực nội sọ).
Triệu chứng |
Dấu hiệu |
Khó thởSổ mũiHoThở ồn ào (thở rên, thở rít, khò khè...)Khàn tiếngKhông uống đượcĐau bụng Dấu hiệuTím táiCo rút lồng ngựcĐau ngựcNgừng thởKhông ăn đượcNhịp thở nhiễm toan |
Nhịp thở nhanhCo rút lồng ngựcThở rênCánh mũi phập phồngThở rítKhò khèLép bép thành ngựcKhí quản bị đẩy lệchTiếng gõ bất thườngNghe tiếng ran nổ |
Khi có thở rít kết hợp với ho ông ổng và khó thở nặng thì nghĩ đến viêm tắc thanh quản nặng, điều trị bằng khí dung adrenalin 1‰ 5ml và oxy.
Nếu có tiếng rít nhẹ và trẻ mệt thì xem có viêm nắp thanh môn không, tuy nhiên bệnh này hiếm gặp. Có thể liên hệ bác sỹ gây mê để trợ giúp. Không nên có các can thiệp thô bạo vào đường thở.
Nếu bệnh của trẻ khởi phát đột ngột và có tiền sử sặc rõ thì nghĩ đến dị vật thanh quản. Làm các biện pháp tống dị vật ra ngoài không thành công thì phải soi thanh quản gắp dị vật. Không được can thiệp thô bạo vào đường thở. Khi cần, liên hệ với bác sĩ gây mê để mở khí quản gấp.
Tiếng thở rít xảy ra sau khi bệnh nhân tiêm hoặc ăn phải dị nguyên thì nghĩ đến phản vệ. Cho adrenalin 1‰ 10 mg/kg tiêm bắp.
Những trẻ có tiền sử hen phế quản, thở khò khè, suy hô hấp nặng, lưu lượng đỉnh giảm hoặc thiếu oxy tổ chức thì phải được điều trị bằng khí dung các Thu*c chủ vận b2 và ipratropium với O2.
Đối với trẻ bị nhiễm toan, cần lấy máu làm khí máu và đường máu. Điều trị nhiễm toan do đái đường bằng huyết thanh mặn 9 ‰ và insulin.
Triệu chứng |
Dấu hiệu |
Khó thởSốtNhịp tim nhanhĂn uống khóTím táiXanh xaoGiảm trương lực cơTình trạng ngủ gàMất dịchThiểu niệu |
Nhịp tim nhanhNhịp tim chậmRối loạn nhịp và biên độ mạchMàu sắc và tưới máu da bất thườngGiảm huyết ápTăng huyết ápRối loạn nhịp thở và biên độ thởGan toPhổi có ranCác tiếng thổi ở timPhù ngoại biênTĩnh mạch cổ nổi |
Bolus dịch nếu bệnh nhân sốc, không đáp ứng với lần bơm dịch thứ nhất. Cân nhắc dùng Thu*c vận mạch và đặt nội khí quản nếu phải bolus dịch lần 3.
Cân nhắc việc sử dụng kháng sinh tĩnh mạch trong trường hợp trẻ sốc nếu không có dấu hiệu mất nước vì có thể là nhiễm khuẩn máu.
Nếu bệnh nhân có rối loạn nhịp tim thì dùng phác đồ loạn nhịp thích hợp. Nếu sốc phản vệ thì dùng adrenalin tiêm bắp liều 10mcg/kg và theo phác đồ sốc phản vệ.
Triệu chứng |
Dấu hiệu |
Đau đầuCo giậtThay đổi hành viRối loạn ý thứcGiảm vận độngRối loạn thị giácSốt |
Rối loạn ý thứcCo giậtKích thước đồng tử và phản xạ ánh sáng thay đổiTư thế bất thườngPhản xạ mắt – não bất thườngCác dấu hiệu màng nãoPhù gai thị và xuất huyết võng mạcPhản xạ gân xương thay đổiTăng huyết ápMạch chậm |
Nếu co giật kéo dài, dùng phác đồ xử trí trạng thái động kinh Nếu có bằng chứng của tăng áp lực nội sọ như mất ý thức cấp tính, tư thế bất thường hoặc phản xạ vận động nhãn cầu bất thường, trẻ cần được đặt ống nội khí quản và thông khí nhân tạo. Cân nhắc dùng manitol 0,5g/kg tĩnh mạch. Nếu tri giác giảm hoặc co giật, cần nghĩ đến viêm màng não hoặc viêm não và cho cefotaxim/acyclovir. Nếu trẻ lơ mơ và thở yếu, cần kiểm tra đường máu, khí máu, định lượng salicylate trong máu. Điều trị nhiễm toan do đái đường bằng huyết thanh mặn 9‰ và insulin. Nếu trẻ hôn mê, đồng tử co nhỏ thì nghĩ đến ngộ độc opiate, có thể dùng thử naloxone.
Triệu chứng |
Dấu hiệu |
Ban dị ứngSưng môi, lưỡiSốt |
Ban hoại tửMày đayPhù mạch |
Nếu trẻ có triệu chứng rối loạn tuần hoàn và thần kinh, có ban xuất huyết thì gợi ý có nhiễm khuẩn huyết hoặc viêm màng não mủ, điều trị bằng cefotaxim và cấy máu.
Nếu trẻ có triệu chứng hô hấp, tuần hoàn, có ban mề đay hoặc phù mạch thì gợi ý có sốc phản vệ, điều trị bằng epinephrin 10 mcg/kg tiêm bắp.
Cấp cứu tiêu hoá thường gặp là sốc do mất dịch. Điều này dễ nhận thấy khi đánh giá ban đầu về tuần hoàn hoặc đánh giá bước hai về tim mạch.Và cũng cần tìm để loại trừ các dấu hiệu ngoại khoa.
Môi trường sống và sự phát triển của trẻ: Đặc biệt là đối với trẻ nhỏ và trẻ nhũ nhi, hiểu biết về quá trình phát triển, tiêm chủng và hoàn cảnh gia đình của trẻ rất hữu ích. Người nhà có thể nhớ các bệnh đã mắc của trẻ.
Thu*c và dị ứng: Nếu nghi ngờ trẻ bị ngộ độc thì phải quan tâm đến tiền sử dùng Thu*c ở nhà hoặc điều trị trước đó.
Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh bệnh nặng bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh bị bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ chống dịch dịch covid dự kiến khỏi bệnh mắc mới nâng cấp sở y tế thêm ca mắc Thêm ca mắc mới tiếp cận