Các chùa miền Bắc thường theo Thiền phái Bắc tông nên cách bài trí tượng Phật đơn giản và khác với chùa miền Nam. Một ngôi chùa Phật giáo ở miền Bắc phổ biến có 4 khu vực: Chính điện, Tiền đường, Nhà hành lang, Nhà tổ và nhà trai.
Là ba pho tượng ngồi ngang nhau ở nơi cao nhất trên bàn thờ, đại diện cho chủ Phật trong ba thời gian quá khứ, hiện tại thế, vị lai thế.
Tượng còn được gọi là “Tây phương tam thánh” đặt ở hàng thứ hai từ trên xuống gồm: Phật A-di-đà (ngồi giữa) Đại Thế Chí (bên trái) và Quan Thế Âm (bên phải) Đây là 2 vị hộ pháp giúp việc cứu độ cho Phật A-di-đà.
Tượng Phật A Di Đà thường có những nét đặc trưng: Dù ngồi hoặc đứng trên toà sen thì đầu đều có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, mình mặc áo cà sa, ngực có chữ vạn ở khoảng trống của áo cà sa.
Phật A-di-đà được tạc trong tư thế toạ thiền, ngồi xếp bằng, hai tay đặt giữa lòng đùi, khuôn mặt đôn hậu, mắt nhìn xuống suy tư, miệng hơi mỉm cười.
Một số nơi, tạc tượng A-di-đà ở tư thế đứng thuyết pháp trên toà sen.
Tượng đặt ở hàng thứ ba, chính giữa. Tượng được tạc ở 4 tư thế thuộc 4 giai đoạn khác nhau theo truyền thuyết về cuộc đời của Thích Ca Mâu Ni.
- Tượng Cửu Long (Thích Ca sơ sinh): Tượng ở tư thế đã bước ra rồi đứng lại, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, có 9 con rồng uốn chầu xung quanh. Hai bên tượng Cửu Long là hai tượng Đế Thích và Phạm Vương, chủ thể thế giới, nên tạc theo kiểu nhà vua ngồi trên ngai.
Phật sử nói rằng, khi Thích Ca giáng sinh có 9 con rồng phun nước để tắm cho Ngài. Tắm xong Ngài tự đi 7 bước về phía trước, tay phải Ngài chỉ lên trời, tay trái Ngài chỉ thẳng xuống đất mà nói ngay được rằng “Thiên thượng, Thiên hạ, duy ngã độc tôn” (có nghĩa là trên trời, dưới đất, chỉ có “ta” là tôn quý).
- Tượng Tuyết Sơn: Tượng diễn tả Thích Ca Mâu Ni trong thời kỳ tu khổ hạnh trên núi Tuyết Sơn (núi rừng Ni Câu Luật) với thân hình gầy gò, chỉ có da bọc xương. Dân gian quen gọi tượng Thích Ca Mâu Ni trong thời kỳ tu khổ hạnh là “Ông nhịn ăn để mặc”.
- Tượng Thích Ca thuyết pháp (còn gọi là Thích Ca giáo chủ): Tượng được tạc Thích Ca Mâu Ni trong tư thế ngồi trên toà sen, mặc áo pháp, một vai để trần (tượng tay cầm bông sen là tượng Thế Tôn niêm hoa…). Hai bên tượng Thích Ca thuyết pháp có hai vị thị giả là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát.
Có chùa thay hai tượng này bằng hai tượng đệ tử A Nan Đà và Ca Diếp (thuộc bộ ba của Phật giáo Tiểu thừa).
- Tượng Niết Bàn: Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết Bàn được xem là đoạn triệt luân hồi và đi vào một thể tồn tại khác, không còn chịu sự tác động của nghiệp, không còn chịu quy luật nhân duyên, vô vi, không còn sự sinh, thành, hoại, diệt.. Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện là tham, sân và si.
Tượng diễn tả Thích Ca Mâu Ni đang nhập Niết bàn. Thông thường tượng Niết Bàn ở tư thế nằm nghiêng sườn bên phải xuống thoải mái, tay phải co lại chống lên đầu, mắt lim dim.
Tượng Niết Bàn phổ biến ở các chùa thờ Phật theo Nam Tông, nhưng ít thấy ở các ngôi chùa thờ Phật theo Bắc Tông.
Phật Di Lặc được diễn tả bằng một pho tượng có dáng thư thái, thanh thản, hết ưu phiền của bậc tu hành sắp đắc đạo thành Phật. Vì có thân hình đẫy đà, miệng cười lạc quan, nên dân gian quen gọi là ông “Nhịn mặc để ăn”.
Thông thường hai bên tượng Phật Di-Lặc là hai tượng Pháp hoa lâm Bồ tát và Đại diện tướng Bồ tát, nên còn gọi là Di-Lặc Tam Tôn.
Thông thường nhà Bái Đường (còn gọi là Tiền Đường) được xây dựng trước cửa Chính điện. Các tượng bày ở nhà Bái Đường gồm:
Hai bên ở Bái đường đặt tượng hai vị Hộ pháp. Hai vị Hộ pháp là ý nghĩa khuyến Thiện và trừng ác để hộ trì Phật pháp.
Tượng Hộ pháp thường được tạc rất to, theo kiểu võ sĩ cổ, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ, một vị tay cầm viên ngọc, một vị tay cầm binh khí, trong tư thế đứng hoặc ngồi trên lưng một con sân (một loại giống sư tử).
Thường thì các chùa miền Bắc thờ Đức Ông (còn gọi là Đức Chúa) một bên, và Đức Thánh Hiền (còn gọi là Thánh Tăng) một bên.
Nhưng cũng có ít chùa thờ một bên là Thần Thổ Địa, một bên là Thánh Tăng. Đặc biệt, ở chùa giữa (Tây Phương) lại thờ cả Thần Thổ Địa và Đức Ông (một trẻ râu ngắn, một già râu dài) ở gian Tiền Đường.
Tượng râu dài là Long Thần, hay Già Lam Chân Tể, có thể hiểu là người coi sóc chùa. Tượng râu ngắn có thể hiểu là Thổ địa, người canh giữ Đất.
Tượng bày ở nhà hành lang là 18 vị La Hán được tạc kích thước bằng người bình thường với các tư thế khác nhau: Vị ngồi trên tảng đá, vị ngồi trên gốc cây, vị ngồi lưng ngựa, vị ngồi lưng tê giác… vẻ mặt suy nghĩ trầm mặc.
Phật giáo Tiểu thừa cho rằng La Hán là vị quả thánh cao nhất nhưng còn phiền não luân hồi sinh tử, vâng lệnh của Phật ở mãi trên thế gian để cứu độ chúng sinh, không nhập diệt.
Nếu thờ Tổ gọi là Nhà Tổ, dùng trai tăng gọi là Nhà Trai.
Nhà Tăng thường được xây dựng sau chính điện nên còn gọi là hậu đường. Trên cao của gian giữa thờ hai tượng Thánh tăng là A Nan Đà (Phật giáo Đại thừa thì thờ Văn Thù Bồ Tát) và Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma (là tổ sư truyền đạo thiền sang Trung Hoa và các nước Đông Nam Á).
Dưới là các vị sư tổ đã tu tại chùa. Các vị sư tổ có thể tạc tượng hoặc không tạc tượng. Có chùa xây dựng một điện riêng để thờ các vị thần thánh này. Ngoài ra, ở nhà tăng trong một số chùa còn thờ tượng Quan Âm Tổng Tử, Quan Âm toạ sơn….
(Trích từ VÀO CHÙA LỄ PHẬT NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT của Đặng Xuân Xuyến, Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin 2006)