Trong quá trình diễn ra phiên xét xử, cho rằng Chủ tịch UBND H.Gò Công Tây Đinh Tấn Hoàng ký ban hành công văn 256/UBND ngày 10.2.2020 trả lời cho TAND H.Gò Công Tây có nội dung vi phạm pháp luật, lạm quyền, can thiệp vào hoạt động xét xử, nên bà Ngô Thị Cẩm Lan (ngụ TX.Gò Công, tỉnh Tiền Giang) đã gửi đơn tố cáo.
Ngày 18.5, Phó trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy Tiền Giang Phan Văn Nha đã ký thông báo số 1428-CV/BNCTU gửi bà Ngô Thị Cẩm Lan. Theo đó, qua xem xét nhận thấy nội dung đơn tố cáo của bà đối với ông Đinh Tấn Hoàng (Chủ tịch UBND H.Gò Công Tây) về việc ban hành văn bản trái pháp luật, đã được gửi đến Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang, là đúng cá nhân có thẩm quyền giải quyết.
“Đối với nội dung tố cáo chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai H.Gò Công Tây không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) của chồng bà, là ông Nguyễn Văn Chính theo quy định của pháp luật. Hiện vụ việc đang được TAND H.Gò Công Tây thụ lý giải quyết, đề nghị bà chờ kết quả giải quyết của tòa án” - nội dung thông báo thể hiện.
Như Một Thế Giới đăng tải trước đó, trong nội dung công văn do Chủ tịch UBND H.Gò Công Tây Đinh Tấn Hoàng ký có đoạn: “UBND huyện cấp GCNQSDĐ cho người nộp tiền là ông Chính có làm thiệt thòi cho bà Dung và 2 con. UBND H.Gò Công Tây đề nghị TAND H.Gò Công Tây xem xét giúp đỡ cho bà Dung và 2 con của bà trong vụ kiện tranh chấp tài sản để giảm bớt thiệt thòi”…
Ngày 14.5, TAND H.Gò Công Tây đã tuyên bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Cẩm Dung (ngụ ấp Khương Ninh, xã Long Bình) - vợ đã ly hôn 8 năm của ông Chính, và chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của 2 người liên quan là Phúc Ninh, Quế Viên (con gái ông Chính - giáo viên Trường THPT Long Bình).
Cụ thể là chia phần đất 607,4m2 (ở ấp Khương Ninh, xã Long Bình, H.Gò Công Tây), ông Chính được 202,8m2, bà Dung được 134,8m2, Quế Viên được 135,1m2 và Phúc Ninh là 134,7m2. Ngoài ra bản án sơ thẩm tuyên không công nhận hợp đồng tặng/cho quyền sử dụng đất giữa ông Chính và bà Ngô Thị Cẩm Lan.
Nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên chưa đúng các quy định của pháp luật, làm thiệt thòi quyền lợi nên ông Chính đã kháng cáo toàn bộ bản án nói trên.
Theo nội dung kháng cáo, ông Chính đề nghị tòa phúc thẩm sửa bán án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và bác yêu cầu độc lập của các người có liên quan; công nhận quyền sử dụng đất cho ông, công nhận hợp đồng tặng/cho quyền sử dụng đất giữa ông và bà Lan.
Theo ông Chính, nội dung bản án sơ thẩm nhận định nguồn gốc của mảnh đất 607,4m2 do hộ ông Nguyễn Văn Chính sử dụng từ năm 2002 - 2010. Khi vợ chồng (ông Chính - bà Dung) ly hôn mới tách ra, không sử dụng nữa nên cho rằng đây là tài sản chung của hộ gia đình.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm cũng căn cứ vào kết luận Thanh tra số 03, lập ngày 10.3.2010 để cho rằng phần đất này đã được kết luận thanh tra kiến nghị là cấp cho hộ gia đình, nên đây là tài sản chung của hộ gia đình. Từ đó chấp nhận việc chia tài sản cho các thành viên trong hộ.
Tuy nhiên, ông Chính khẳng định đây không phải là tài sản của hộ gia đình bởi thời điểm ông và bà Dung cùng 2 con cất nhà trên phần đất này thì đây là đất công. Ông chỉ được xem xét cất nhà ở tạm, không phải là đất của gia đình.
Ông và bà Dung ly hôn tháng 4.2010. Sau khi ly hôn cả hai đã dọn ra khỏi phần đất công, trả đất lại cho nhà nước và ra ở trọ. Đến đầu năm 2011, ông cùng với một số giáo viên trong nhà trường đã gửi đơn xin được xét thanh lý lại một phần đất trong khu tập thể trước đây để có nơi ở ổn định.
Ngày 29.3.2011, UBND H.Gò Công Tây đã có buổi họp đề xuất xét duyệt về trường hợp xin thanh lý đất của ông. Theo biên bản lập cùng ngày, ông được xét cấp 619m2 có thu tiền sử dụng đất. Ngày 27.4.2011, UBND H.Gò Công Tây ban hành quyết định số 1248/QĐ-UBND về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cho ông, với diện tích 610,9m2.
Tháng 12.2011, ông đã làm nghĩa vụ tài chính, nộp 168 triệu đồng. “Như vậy việc giao đất, hợp thức hóa quyền sử dụng đất và đóng thuế quyền sử dụng đất đối với 607,4m2 của tôi đều diễn ra sau thời điểm ly hôn, nên không thể coi đây là tài sản chung của vợ chồng”, ông Chính nhấn mạnh. Đến năm 2018, bà Dung mới nộp đơn đòi chia đất.
Theo ông Chính, ông là chủ sử dụng hợp pháp đối với phần đất 607,4m2 nêu trên, nhưng tòa án lại không công nhận quyền được tặng/cho phần đất đó là vi phạm một trong các quyền của chủ sử dụng đất được Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai quy định.
Bên cạnh đó, tòa án không công nhận hợp đồng tặng/cho giữa ông và bà Lan nhưng không xử lý sự tồn tại của hợp đồng này (bản án không tuyên hợp đồng vô hiệu cũng không tuyên hủy hợp đồng) và cũng không xử lý việc bà Lan đã nộp nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước là chưa xử lý dứt điểm vụ kiện.
Ngoài ra, hợp đồng cho/tặng giữa ông và bà Lan đã được công chứng chứng thực nhưng Văn phòng Công chứng lại không được triệu tập làm người liên quan trong vụ kiện là vi phạm tố tụng.
Ông Chính còn cho rằng ông đã được UBND H.Gò Công Tây cấp GCNQSDĐ là hợp pháp. Thế nhưng bản án sơ thẩm chia phần đất của ông, tuyên ông, bà Dung và 2 người liên quan được liên hệ các cơ quan chuyên môn để xin cấp giấy đất nhưng lại không xử lý sự tồn tại của GCNQSDĐ mà UBND H.Gò Công Tây cấp cho ông là chưa giải quyết dứt điểm các vấn đề của vụ việc.
Chủ đề liên quan:
Ban Nội chính Tỉnh ủy Tiền Giang chia tài sản ly hôn nộp tiền sơ thẩm sử dụng đất tài sản thầy giáo tranh chấp