Bài giảng nhãn khoa hôm nay

Các phương pháp điều trị tại mắt: dấu hiệu triệu chứng, nguyên nhân, chẩn đoán điều trị nhãn khoa

Trong nhiều bệnh của mắt, để tăng cường hiệu quả của điều trị, ngoài việc tra Thu*c tại chỗ người ta thường phải phối hợp các phương pháp tiêm mắt

Có nhiều phương pháp giúp cho Thu*c có thể vào mắt trực tiếp và nhiều hơn so với đường toàn thân. Việc lựa chọn phương pháp dùng Thu*c tại mắt thích hợp có ảnh hưởng rõ rệt đối với kết quả điều trị.

Tra Thu*c tại mắt

Thu*c dùng tại chỗ được tra vào kết mạc cùng đồ dưới, từ đó Thu*c sẽ thấm qua giác mạc và kết mạc để vào phần trước nhãn cầu. Khoảng 80% lượng Thu*c vào mắt thông qua con đường giác mạc, phần còn lại qua đường kết mạc hoặc lệ đạo. Biểu mô giác mạc là một trở ngại cho Thu*c đi qua, khi biểu mô giác mạc bị tổn thương do các quá trình bệnh lí thì khả năng thấm qua giác mạc của Thu*c được cải thiện rất nhiều. Tuy nhiên, một lượng Thu*c đáng kể Thu*c tra mắt được hấp thụ vào cơ thể và có thể gây ra những phản ứng phụ toàn thân, nhất là các phản ứng nhiễm độc (chẳng hạn atropin, adrenalin, v.v.). Thu*c tra mắt thường dưới 2 dạng:

Thu*c nước

Thu*c nước là dạng Thu*c mắt được dùng phổ biến nhất. Thu*c nước có ưu điểm là dễ dùng và không ảnh hưởng đến thị lực. Nhược điểm của Thu*c nước là thời gian tồn tại ở bề mặt kết-giác mạc rất ngắn (90% Thu*c bị loại khỏi mắt sau khi tra 1-2 phút), thời gian tồn tại của Thu*c càng ngắn nếu chớp mắt nhiều, vì vậy để tăng hiệu quả của Thu*c thì số lần dùng thường phải nhiều hơn và không nên chớp mắt nhiều sau khi tra Thu*c. Hầu hết các Thu*c tra mắt đều có dạng nước.

Thu*c mỡ

Thu*c mỡ ít kích thích, và ít hấp thụ qua lệ đạo, bền vững hơn Thu*c nước và thời gian tồn tại ở mắt dài hơn nên có thể giảm số lần dùng Thu*c. Nhược điểm của Thu*c mỡ là tạo thành một lớp mỏng trước giác mạc làm cho mắt nhìn bị mờ, gây dính các lông mi, và thường gây viêm da tiếp xúc. Thu*c mỡ nên dùng vào buổi trưa và tối trước khi đi ngủ. Các Thu*c thường được dùng dưới dạng mỡ là: Thu*c kháng sinh (tetracyclin, aureomycin, gentamycin, chloramphenicol), Thu*c sát trùng (xanh methylen, oxit vàng thủy ngân), Thu*c kháng vi rút (zovirax) và một số Thu*c giãn hoặc co đồng tử.

Đặt Thu*c tại mắt

Để khắc phục những nhược điểm của các Thu*c tra mắt là thời gian tồn tại ở mắt ngắn và lượng Thu*c ngấm vào mắt không đều, người ta đã sản xuất ra các màng tẩm Thu*c (gần như một kính tiếp xúc) hoặc dạng viên nhỏ (kích thước gần như hạt gạo) dùng để đặt tiếp xúc với kết-giác mạc hoặc cùng đồ dưới. Thu*c sẽ giải phóng một cách từ từ, đều đặn và kéo dài (có thể tới 1 tuần). Thu*c thường dùng nhất dưới dạng này là các Thu*c co hoặc giãn đồng tử (pilocarpin hoặc atropin).

Hình - Viên Thu*c giãn đồng tử đặt tại mắt

Tiêm Thu*c tại mắt

Trong nhiều bệnh của mắt, để tăng cường hiệu quả của điều trị, ngoài việc tra Thu*c tại chỗ người ta thường phải phối hợp các phương pháp tiêm mắt để cho lượng Thu*c vào mắt được nhiều hơn. Có nhiều phương pháp tiêm mắt khác nhau tùy theo vị trí của tổn thương bệnh lí:

Tiêm dưới kết mạc

Tiêm dưới kết mạc dùng để điều trị các bệnh của phần trước nhãn cầu. Một số loại Thu*c không thấm được vào nhãn cầu qua con đường tra mắt khi được tiêm vào dưới kết mạc có thể khuếch tán vào mắt qua vùng rìa giác mạc hoặc củng mạc.

Kĩ thuật: sau khi tra Thu*c tê tại chỗ, dùng bơm tiêm với kim nhỏ chọc qua kết mạc ở cách rìa khoảng 3-4 mm, tiêm dưới kết mạc một lượng Thu*c khoảng 1/4 ml đến 1 mm. Kết mạc sẽ bị phù nhẹ tại vị trí tiêm.

Các Thu*c thường dùng để tiêm dưới kết mạc: kháng sinh, corticosteroid, Thu*c giãn đồng tử và liệt thể mi (để chống dính mống mắt trong điều trị viêm màng bồ đào), 5-fluorouracil (Thu*c chống chuyển hóa, để giảm sẹo xơ hóa sau phẫu thuật glôcôm).

Tiêm dưới bao Tenon

Tiêm dưới bao Tenon dùng trong điều trị các bệnh của phần trước nhãn cầu. Các Thu*c dùng để tiêm dưới kết mạc cũng được dùng tiêm dưới bao Tenon.

Kĩ thuật: sau khi tra Thu*c tê tại chỗ, dùng một kẹp nhỏ nâng nhẹ kết mạc lên và chọc kim dưới kết mạc hướng về phía sau. Thu*c được tiêm vào dưới bao Tenon có thể lan tỏa sâu hơn về phía sau.

Hình - Tiêm dưới bao Tenon

Tiêm sau nhãn cầu

Tiêm sau nhãn cầu là một phương pháp khá phổ biến trước đây, chủ yếu để điều trị các bệnh của thần kinh mắt và của các cấu trúc trong chóp cơ.

Kĩ thuật: dùng kim tiêm dài chọc qua da hoặc qua cùng đồ dưới, đi qua phía dưới nhãn cầu, để đưa Thu*c vào chóp cơ phía sau nhãn cầu.

Các Thu*c thường dùng: Thu*c gây tê, kháng sinh, corticosteroit, vitamin, Thu*c giãn mạch. Một số trường hợp tiêm sau nhãn cầu có thể gây tai biến như kim chọc vào nhãn cầu, tụ máu sau nhãn cầu, đôi khi gây liệt vận nhãn hoặc mất thị lực (thường nhất thời), vì thế phương pháp này hiện nay càng ngày càng ít được dùng.

Tiêm cạnh nhãn cầu

Tiêm cạnh nhãn cầu nhằm đưa Thu*c vào khu vực ở trước hoặc sau xích đạo của nhãn cầu, có thể tiêm qua da hoặc qua cùng đồ dưới. Các Thu*c thường dùng là kháng sinh hoặc corticosteroid. Tiêm cạnh nhãn cầu ít gây tai biến hơn so với tiêm hậu nhãn cầu, vì vậy những năm gần đây kỹ thuật này được dùng rất phổ biến để gây tê cho các phẫu thuật ở mắt thay thế cho tiêm hậu nhãn cầu.

Tiêm trong tiền phòng

Đây là phương pháp đưa Thu*c trực tiếp vào tiền phòng, chủ yếu dùng cho những trường hợp viêm màng bồ đào nặng hoặc dùng trong phẫu thuật.

Kĩ thuật: sau khi tiêm Thu*c tê bằng Thu*c tra tại chỗ, dùng một dao nhỏ chọc vào tiền phòng ở vùng rìa theo hướng song song bề mặt mống mắt, sau đó dùng một bơm tiêm có kim đầu tù chọc qua lỗ này để tiêm Thu*c vào tiền phòng. Cần thận trọng khi thao tác vì có thể có biến chứng xuất huyết tiền phòng hoặc rách bao thể thủy tinh.

Các Thu*c thường dùng để tiêm trong tiền phòng gồm kháng sinh, corticosteroid, Thu*c co đồng tử (trong phẫu thuật).

Tiêm trong dịch kính

Trong một số các trường hợp nhiễm trùng nội nhãn nặng (chẳng hạn viêm mủ nội nhãn), người ta dùng phương pháp tiêm trong dịch kính để đưa Thu*c trực tiếp vào trong nhãn cầu, Thu*c thường dùng để tiêm trong dịch kính chủ yếu là kháng sinh và corticosteroid. Khi tiêm trong nhãn cầu, chỉ được dùng một lượng Thu*c nhỏ (0,1 - 0,2 ml) với nồng độ thấp để tránh gây độc cho thể thủy tinh và võng mạc.

Điện di (iontophoresis)

Điện di là phương pháp có thể giúp cho Thu*c vượt qua được trở ngại ở hàng rào biểu mô giác mạc. Dung dịch Thu*c được để tiếp xúc với giác mạc và chứa trong một chén nhỏ mang một điện cực. Thu*c được ngấm vào mắt khi có một hiệu điện thế sinh ra. Điện cực phải cùng dấu với điện tích của Thu*c ở dạng dung dịch. Điện cực dương trên giác mạc thường dùng cho các Thu*c có điện tích dương (chẳng hạn gentamycin, kanamycin, streptomycin). Điện cực âm trên giác mạc thường dùng cho các Thu*c có điện tích âm (cephalosporin).

Rửa mắt liên tục

Trong một số trường hợp nhiễm trùng nặng (chẳng hạn viêm loét giác mạc do trực khuẩn mủ xanh), để đưa Thu*c kháng sinh vào mắt được liên tục.

Kĩ thuật: bệnh nhân nằm tại giường, dùng một chai dịch truyền được nối với một ống dẫn với một đầu ống được cố định vào mi mắt. Mi mắt bệnh nhân được mở cố định bằng băng dính. Mỗi lần rửa mắt kéo dài khoảng 1 giờ, có thể lặp lại 2 đến 3 lần một ngày.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/bgnhankhoa/cac-phuong-phap-dieu-tri-tai-mat/)

Tin cùng nội dung

  • Ung thư và quá trình điều trị ung thư sẽ làm thay đổi khẩu vị. Nên chọn các thực phẩm giàu đạm và trình bày đẹp mắt để giúp cho khẩu vị ngon hơn
  • Phần lớn những tác dụng phụ liên quan đến việc ăn uống do điều trị ung thư sẽ biến mất sau khi kết thúc quá trình điều trị. Vài lời khuyên cho một chế độ ăn uống tốt sau trị liệu ung thư.
  • Cơ thể cần thêm năng lượng và chất dinh dưỡng để lành vết thương, chống nhiễm trùng và phục hồi sau phẫu thuật. Nếu bệnh nhân bị thiếu hoặc suy dinh dưỡng trước khi mổ, quá trình hồi phục có thể gặp trở ngại.
  • Khi ung thư hay việc điều trị ung thư gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường, những thay đổi là cần thiết để cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân. Thu*c có thể được dùng để kích thích khẩu vị.
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY