Cây diếp cá là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bống, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bấc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8.
Mọc hoang khắp nơi ẩm thấp ở Việt Nam. Nhân dân thường hái về ăn với cá. Toàn cây hái vế dùng tươi hay phơi khô hoặc sấy khô.
Trong cây có chừng 0,0049% tinh dầu và một ít chất ancalốit gọi là cocdalin (cordalin). Thành phần chủ yếu của tinh dầu là metylnonylxeton (có mùi rất khó chịu), chất miêcxen (myrcen), axit caprinic và laurinaldehyt.
Hoa và quả chứa chất isoquexitrin và không chứa quexitrin. Độ tro trung bình là 11,4%, tro không tan trong HCl là 2,7%.
Diếp cá có tác dụng lợi tiểu; tính chất lợi tiểu này do chất quexitrin và các chất vô cơ chứa trong diếp cá. dung dịch có 1/100.000 phân tử lượng quexitrin vẫn còn có tác dụng lợi tiểu rất mạnh. chất isoquexitrin cũng có tác dụng lợi tiểu (nhật dược chí 1936).
Một ý kiến khác cho rằng những dẫn xuất của đioxyflavonon (3-4díoxyflavonol) đều có tính chất của rutin nghĩa là tăng sức chịu đựng của vi ti huyết quản làm cho huyết quản khó đứt vỡ.
Tính vị theo đông y: Cay, hơi lạnh, hơi có độc, vào phế kinh. Có tác dụng tấn nhiệt, tiêu ung thũng, dùng chữa phế ung, ngoài dùng chữa ung thũng, trĩ, vết lờ loét.
Nhân dân dùng cây diếp cá trong những trường hợp tụ máu như đau mắt (giã nhỏ lá ép vào hai miếng giấy bản đắp lên mắt khi ngủ, làm như vậy hai ba lần) hoặc trong bệnh trĩ lòi dom (sắc uống nước với liều 6-12g đồng thời sắc nước lấy hơi xông rồi rửa). nhiều người dùng thấy hiệu nghiệm.