Mô tả: Cây nhỡ cao 4-8m, thường là 3-4 m, phân nhánh nhiều. Thân cành màu nâu bạc, có nốt sần và vết sẹo của lá; nhựa mủ trắng, lá mọc vòng 3-5 cái, phần nhiều là 4, hình ngọn giáo đến bầu dục, dài tới 20cm, rộng 7cm. Hoa nhỏ, nhiều, màu trắng lục, mọc thành xim hai ngả hình tán ở nách lá và đầu cành. Cánh hoa xoăn, ống tràng phình ở hai đầu, vòi nhuỵ có lông ở gốc. Quả đại xếp từng đôi, có khi chỉ có 1 cái phát triển hình trứng hoặc hình cầu, khi chín màu đỏ cam, hạt dẹt cong, có khía.
Nơi sống và thu hái: Chỉ mới gặp ở huyện Phù Ninh tỉnh Vĩnh Phú. Nơi đây thời trước có trạm thí nghiệm trồng cây nhiệt đới do người Pháp lập ra, có thể là cây nhập từ châu Phi, trữ lượng hiện nay không đáng kể. Ta có chủ trương khoanh vùng bảo vệ nơi có cây mọc từ nhiều và gây trồng để giữ giống và phát triển.
Rễ ba gạc châu phi có đường kính 4-5cm đến 9cm, mặt ngoài vàng nâu, khía dọc, cũng có thể thu hái như rễ các loại ba gạc khác.
thành phần hoá học: chủ yếu là alcaloid tập trung ở rễ và lá, ở rễ, hàm lượng alcaloid toàn phần là 1-1,5%, tập trung 90% ở vỏ rễ. cây trồng ở việt nam có vỏ rễ chứa 3,28-5,66% alcaloid toàn phần. rễ chứa reserpin (0,2%) ajmalin, reserpilin và một số alcaloid đặc biệt thuộc nhóm yohimbin (sederin) heteroyohimbin, rauvanin (đồng phân của reserpilin) alstonin (đồng phân của serpentin). vỏ rễ là nguyên liệu để chiết xuất reserpin, ajmalin, reserpilin. lá chứa 1% alcaloid là dẫn chất của heleroyophimbin-oxiadol tương ứng (rauvocin, rauvocinin). ngoài ra, lá còn chứa các hợp chất flaconoid dưới dạng heterosid của kaempferol. từ loài ba gạc này, đã chiết xuất được 0,05% reserpin và ajmalin.