Chứng ù tai, tai điếc phần nhiều đều có liên quan đến can và thận mà quan hệ với thận thì nhiều hơn.
Kỳ I: Biện chứng luận trị và day bấm huyệt
chữa ù tai">
chữa ù tai
Người cao tuổi thường bị ù tai, điếc tai, tai nghễnh ngãng. Tai là khiếu bên ngoài của thận thuộc về kinh túc thiếu âm. Sách Linh khu nói: “khí của thận thông lên tai, thận điều hòa thì tai nghe được ngũ âm. Nếu bể tủy không đủ thì long óc, ù tai”. Não là bể của tủy. Ngoài ra hỏa của can bốc lên cũng làm ù tai.
Chứng tai ù, tai điếc phần nhiều đều có liên quan đến can và thận mà quan hệ với thận thì nhiều hơn.
Tai ù thì nghe như tiếng ve kêu hoặc nhỏ hoặc to; khi mệt quá hoặc giận dữ thì tai càng ù mạnh. Chứng này có hư, có thực; hư thì thấy có triệu chứng đầu choáng, mắt hoa, tim rung động, eo lưng nhức, lưỡi đỏ nhợt, mạch tế; thực thì có cả các hiện tượng đau nhức, mặt đỏ, hay giận, lòng buồn bực, ít ngủ, lưỡi đỏ hoặc rêu vàng nóng. Mạch huyền.
Tai điếc phần nhiều do tai ù lâu mà thành ra không nghe tiếng động bên ngoài. Tai điếc cũng có chứng hư, chứng thực khác nhau, còn chứng trạng kèm theo cũng giống như tai ù.
Người già tai điếc là vì tinh khí không đủ, phần nhiều do hạ nguyên suy yếu. Còn như tự nhiên bị điếc, phần nhiều thuộc can đởm bị hỏa nhiễu động lấp thanh khiếu.
Sau đây là những bài Thu*c thường dùng để trị chứng bệnh này.
Ngũ linh tả từ hoàn: Địa hoàng 12g, phục linh 10g, đơn bì 8g, ngũ vị tử 8g, trạch tả 6g, sơn thù 8g, sơn dược 8g, từ thạch 4g, nước 800ml sắc còn 200ml, uống ấm. Nếu làm hoàn thì tăng liều lượng gấp 3 – 4 lần tán bột hòa với mật ong giã nhuyễn viên như quả táo. Ngày uống 2 lần sáng và tối với nước ấm, mỗi lần uống 2 viên.
Đại bổ âm hoàn: Hoàng bá 12g, tri mẫu 12g, thục địa 16g, quy bản 16g, tán nhỏ hòa với tủy xương sống lợn và mật ong làm viên bằng hạt táo. Ngày uống 2 lần sáng tối với nước ấm, mỗi lần 2 viên.
Bổ cốt chỉ hoàn: Để chữa hạ nguyên hư tổn nên cần ôn bổ thận dương. Thu*c: từ thạch 4g, thục địa 12g, đương quy 12g, xuyên khung 8g, nhục quế 4g, thỏ ty tử 10g, xuyên tiêu 6g, bổ cốt chỉ 12g, bạch tật lê 8g, hồ lô ba 8g, đỗ trọng 12g, bạch chỉ 8g, xương bồ 8g, nước 600ml sắc còn 200ml uống ấm sáng tối. Nếu làm hoàn thì tăng liều lượng, tán nhỏ hòa mật ong làm viên bằng hạt táo, ngày uống 2 viên vào sáng và tối với nước ấm.
Hà xa đại tạo hoàn: Dùng cho người già tai điếc. Thu*c: tử hà xa (nhau thai) 1 cái, đảng sâm 24g, thục địa 24g, đỗ trọng 24g, ngưu tất 24g, thiên môn 16g, mạch môn 16g, quy bán 20g, hoàng bá 16g, phục linh 20g, giã nhuyễn làm hoàn. Ngày uống 2 lần mỗi lần 10g, uống với nước ấm.
Nếu do hỏa của can đởm nhiễu động thì nên thanh can, tá hỏa. Dùng 2 bài: sài hồ thanh can tán và long đởm tả can thang.
Sài hồ thanh can tán: Sài hồ 12g, sinh địa hoàng 12g, xích thược 10g, ngưu bàng tử 8g, đương quy 12g, liên kiều 8g, xuyên khung 10g, hoàng cầm 8g, sinh chi tử 10g, thiên hoa phấn 8g, phòng phong 8g, cam thảo tiết 4g. Sắc uống trong ngày.
Long đởm tả can thang: Long đởm thảo 8g, hoàng cầm 10g, mộc thông 12g, xa tiền tử 10g, đương quy 12g, sinh địa 12g, sài hồ 8g, cam thảo 4g, trạch tả 10g, sơn chi tử 8g. Sắc uống ngày một thang.
Day bấm huyệt chữa ù tai:
chữa ù tai các huyệt thường dùng để day bấm
chữa ù tai là: huyệt thích cung, huyệt nhĩ môn, huyệt thích hội ở tai, huyệt quan xung, dịch môn, trung chỉ ở bàn tay.
Huyệt thích cung: Ở chỗ lõm giữa nếp tai và khớp hàm dưới khi miệng hơi há.
Huyệt thính hội: Ở phía trước dưới nắp tai, phía trước rãnh dái tai, huyệt ở chỗ lõm khi há miệng.
Huyệt nhĩ môn: Khi há miệng huyệt nằm ở chỗ lõm phía trước khe trước vành tai và hơi chếch lên trên mỏm lồi cầu xương hàm dưới.
Huyệt quan xung: Ở mé trụ ngón tay đeo nhẫn cách góc móng tay 0,1 tấc về phía sau.
Huyệt dịch môn: Cách 0,5 tấc kẽ ngón tay đeo nhẫn và ngón tay út .
Huyệt trung chữ: Về phía mu tay, giữa các đốt xương bàn tay 4 và 5 ở chỗ lõm phía sau khớp xương bàn tay ngón tay.
Chú ý: Khi ấn các huyệt nên dùng đầu ngón tay cái hoặc ngón trỏ với lực vừa thỏa đáng cho tới khi thấy bớt đau thì dừng lại. Hằng ngày nên day bấm các huyệt trên nhiều lần mỗi lần 5 – 6 phút là được.
Lương y Minh Chánh