Tâm linh hôm nay

Giải thoát quan Phật giáo

Niết bàn của ta tùy thuộc nơi tấm thân một trượng này, “Nơi mà 4 nguyên tố cấu thành vật chất có đặc tính dính liền, duỗi ra, đốt cháy và di động không còn chỗ đứng.

Giải thoát là cốt lõi của đạo Phật

Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên cho 5 anh em ngài Kiều Trần Như ở Vườn Nai, Đức Phật đã chỉ rõ bốn chân lý của cuộc đời, đó là: Chân lý về Sự Khổ, Chân lý về Nguyên Nhân Của khổ, Chân lý về Sự Diệt Khổ và Chân lý Con Đường Đưa Đến Diệt Khổ.

Chân lý thứ 3, tức chân lý về sự diệt khổ hay cứu cánh rốt ráo của người tu học phật là sự khỏi sự đau khổ triền miên của sinh tử luân hồi, sự chứng đắc niết bàn tịch tịnh.

Con đường đưa đến sự chứng đắc cứu cánh Niết bàn, nói một cách ngắn gọn, chính là con đường Bát chánh đạo, còn gọi là con đường Tam vô lậu học (Giới-Định-Tuệ), và nếu khai triển rộng là con đường 37 phẩm trợ đạo. Quá trình tu tập là quá trình chuyển hóa và đoạn trừ phiền não từng phần cho đến toàn phần.

Theo nam truyền, chúng sinh có 10 kiết sử căn bản cần được đoạn trừ, đó là: 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, giới cấm thủ, nghi, tham, sân) và 5 thượng phần kiết sử (sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh).

Hương vị giải thoát trong từng chén trà

- Hành giả đoạn trừ 3 kiết sử đầu của 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, giới cấm thủ, nghi) sẽ chứng đắc quả Dự Lưu.

- Nếu tham, sân được làm cho muội lược (yếu đi), hành giả đắc quả Nhất Lai.

- Nếu tham, sân được đoạn tận, đắc quả Bất Lai.

- Nếu cả 5 thượng phần kiết sử được đoạn tận hoàn toàn, hành giả đắc Thánh quả A-la-hán.

Bốn thánh quả là bốn trạng thái niết bàn, hay bốn trạng thái giải thoát, từ từng phần đến toàn phần. vậy niết bàn là gì?

Niết bàn hay chân lý trạng thái vắng mặt hoàn toàn khổ đau, là mục đích tối hậu của con đường tâm linh ngay đời này.

Niết bàn (Sanskrit: Nirvàna; Pàli: Nibbàna) gồm hai phần: “Ni” và “Vàna”. Ni là hình thức phủ định, không. Vàna có nghĩa là dệt, hay ái dục. Ái dục này được xem như sợi dây nối liền hai đời sống.

“gọi là vì là sự dứt bỏ, sự tách rời (ni) ra khỏi ái dục (vàna), sự thèm khát nhục dục”.[1]

Hoặc từ “Niết bàn” bắt nguồn từ tiếng “dập tắt” (nirva), nghĩa là dập tắt mọi phiền não, cho nên mới gọi là Niết bàn.[2]

Niết bàn còn có nhiều nghĩa khác nữa đó là: Bất sinh, Giải thoát, Tịch diệt...

- Theo sự còn dư y hay không còn dư y: Hữu dư y Niết bàn và Vô dư y Niết bàn.

- Theo hành tướng thì có: Chơn không Niết bàn, Vô tướng Niết bàn, Vô nguyện Niết bàn.

Bản chất của Niết bàn:

Bản chất của là thanh tịnh. người chứng được diễn tả như đạt trạng thái hoan hỷ, nhẹ nhàng như vừa đặt gánh nặng xuống, như người bịnh vừa khỏi bịnh, như người bị sự bức bách của nóng bức gặp bóng mát của cây, sự an ổn tuyệt đối khỏi các khổ ách (itivuttaka 107, p.111), trạng thái hạnh phúc thanh tịnh, an lạc tuyệt vời (a.i.39, p.147).

Bản chất của cũng được diễn tả với một số cụm từ phủ định như: “cảnh giới không sinh, không trở thành, không duyên sinh. là một cảnh giới nơi đó không có đất, không nước, lửa gió. nó cũng không phải là có sắc hay không sắc. không có mặt trời, mặt trăng...(kinh phật tự thuyết viii, 1-3, p.80-81).

Giới luật là nền tảng của sự giác ngộ giải thoát

Niết bàn có phải là hư vô không?

Niết bàn không phải là hư vô. cũng không phải chỉ là một sự chấm dứt. ngôn ngữ thế gian không thể thích hợp để diễn đạt niết bàn, vì là tuyệt đối, duy nhất và phải tự mình chứng ngộ.[3]

Niết bàn: Sự đoạn tận tái sinh

Do vô minh, ái và thủ, con người trôi lăn trong triền miên sinh tử. Do sự tích tụ thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, con người trôi lăn trong 6 nẻo để gặt hái hay trả cho các nghiệp của mình, như ngọn đèn khi còn tim và dầu, sẽ cháy thêm trong một thời gian. Bằng ngược lại, khi dầu hết, đèn tắt: khi vô minh, ái-thủ không còn, vòng xích 12 nhân duyên bị phá tung, chính là giải thoát.

Trong rất nhiều kinh, Đức Phật dạy công thức cho một Tỳ kheo đắc quả A-la-hán là: “sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, sau đời hiện tại không còn đời sống nào khác”. Cũng như vậy qua lời cảm thán phút giây giác ngộ của Ngài trong những vần kệ số 153-154 Kinh Pháp Cú. Từ những Phật ngôn này cho chúng ta rút ra được những gì?

“người chứng đắc không còn bị sự trói buộc của nghiệp lực. khi còn ái dục là còn sinh tử. khi phiền não đoạn tận thì hiển hiện, và không còn bị tái sinh do nghiệp lực”.

Phiền não và khổ đau gốc rễ của giải thoát

Niết bàn là thực hay không thực?

Có những bằng chứng cho ta khẳng định rằng là thực có. trong các kinh, đức phật đề cập đến cảnh giới (nirodhadhàtu) như sau:

Trong kinh udàna (viii.1-3), phật khẳng định: “này các tỳ-kheo, có cảnh giới trong ấy không có đất, nước, lửa, gió... không mặt trời, mặt trăng...”. bài kinh tiếp theo phật nhấn mạnh: “nếu không có cảnh giới mà nơi ấy không có sự sinh, sự trở thành, sự tạo tác, sự duyên sinh, thì sẽ không có sự thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi vô tận này. chính vì có một cảnh giới như vậy mà có sự sinh tử được hiển lộ.”

Và trong kinh Tương Ưng Bộ III, 85. tr. 109=p.93, Tôn giả Yamaka nói lên quan điểm rằng: “Đức Phật hay một vị A-la-hán, người đã đoạn tận lậu hoặc, sau khi ch*t là hết, là không còn gì”. Quan điểm này đã bị các Tỳ-kheo can ngăn và lên án... Sau đến ngài Xá Lợi Phất rầy dạy...

Và trong kinh Tương Ưng I, tr.97, khi vua Pasenadi của nước Kosala hỏi Phật rằng: Có một vật gì đang sinh ra trên cuộc đời, thế giới này mà có thể thoát khỏi biến hoại và ch*t chóc không? - Phật nói: không, chỉ trừ Pháp của bậc Giới Đức. Bản sớ giải Trường bộ (DA.III, p.123) cho rằng Dhamma ở đây là: 9 cảnh giới siêu thế = Dhammakàya (Pháp thân)=Nibbàna.

Và trong Trung bộ Kinh III (M. III, p.245), Phật tuyên bố Nibbàna là Chân lý cao nhất của bậc Thánh (Paramam ariyasaccam) và không chịu sự biến hoại.

Tóm lại, Phật giáo Theravada tin tưởng Niết bàn là có thực.

Hiểu về Sinh Tử - Cơ hội giải thoát ngàn vàng

Niết bàn ở đâu?

Trong kinh Na Tiên Tỳ khưu vấn đáp (Milinda Panha), Đại đức Nàgasena giải đáp câu hỏi ấy như sau:

“không có nơi nào, nhìn về hướng tây, hướng nam, hướng đông, hướng bắc, phía trên, phía dưới, hay phía ngoài, mà có thể nói đó là niết bàn. tuy nhiên thực sự có, và người nào sinh sống chơn chánh, giới hạnh trang nghiêm, và chú tâm minh sát, dầu ở hy lạp, trung hoa... đều có thể thành tựu đạo quả niết bàn.

Như lửa, không phải tích trữ ở một nơi đặc biệt nào, nhưng khi hợp đủ điều kiện thì lửa phát sinh. cùng thế ấy, ta không thể nói ở đâu nhưng khi đạo đủ duyên đầy thì quả được thành tựu.”

Trong Tương Ưng Bộ, kinh Rohitassa, có ghi lại những Phật ngôn sau đây:

“Như Lai tuyên bố rằng thế gian, nguồn gốc thế gian, sự chấm dứt thế gian, và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian, đều nằm trong tấm thân một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng.” (Theo Đức Phật và Phật pháp, tr.527).

Như vậy của ta tùy thuộc nơi tấm thân một trượng này, “nơi mà 4 nguyên tố cấu thành vật chất có đặc tính dính liền, duỗi ra, đốt cháy và di động không còn chỗ đứng.” (k.s.i, p.23).

Trong kinh udàna,[4] đức phật dạy: “này chư tỳ-kheo, mặc dầu bao nhiêu nước từ sông ngòi kênh rạch và các trận mưa to từ trên trời đổ xuống chảy dồn về biển cả, nhưng không vì thế mà mực nước biển dâng lên quá cao hay xuống quá thấp. cũng dường thế ấy, không vì lẽ có nhiều vị tỳ-kheo nhập đại mà quá đông đúc hay quá thưa thớt”.

Do đó, theo quan điểm ngài nàrada thera, không phải là một cảnh trời nào đó dành riêng cho một cá thể xuất chúng mà là một pháp (dhamma), một sự thành tựu mà mọi chúng sinh đều có thể đạt đến.

Cơ hội giải thoát của vong linh trong 49 ngày

Chấp thuận rằng không có một nơi nào gọi là Niết bàn, vua Milinda hỏi Đại Đức Nàgasena: Căn cứ trên nền tảng nào ta có thể sửa soạn dọn đời sống cho được chứng ngộ Niết bàn? Đại Đức Nàgasena trả lời: Phẩm hạnh là căn bản. Bởi vì, nếu vững vàng đặt nền tảng trên phẩm hạnh và thận trọng nhiếp tâm quán tưởng thì dầu ở bất cứ nơi nào,... người đã sửa dọn, sống đời chơn chánh, sẽ thành tựu đạo quả Niết bàn.[5]

Theo luận câu xá của ngài thế thân, niết bàn là trạng thái trong đó 37 phẩm trợ đạo trở nên trọn vẹn. và theo trường phái satyasiddhi thì niết bàn đồng nghĩa với pháp thân (dharmakàya) và được cấu tạo bởi 5 tính chất: giới trọn vẹn, định trọn vẹn, tuệ trọn vẹn, và tri kiến trọn vẹn.

Cái gì sẽ thọ Niết bàn?

Khi vị A-la-hán tịch, thức diệt, vậy cái gì thọ Niết bàn?

Tăng chi iv.34, p.279, udàyin cũng đặt câu hỏi trên với ngài xá lợi phất. ngài trả lời rằng: như người bịnh nay khỏi bịnh, người ấy sung sướng, cảm thấy phỉ lạc, hạnh phúc, nhẹ nhàng. cũng vậy, chúng sinh bị trói buộc bởi 5 dục trưởng dưỡng như người bị bệnh phải sinh thân 5 uẩn, tiếp nối đời sống. khi vị ấy không còn bị trói buộc vào đó nữa, như người hết bịnh, không còn sinh thân 5 uẩn, nghĩa là không tái sinh vào bào thai, được xem là hạnh phúc, là trong ý nghĩa đó.

Tài liệu tham khảo:

1. KIMURA TAIKEN (Thích Quảng Độ dịch), Nguyên Thủy Phật giáo tư tưởng luận, Khuông Việt XB.

2. NARADA (Phạm Kim Khánh dịch), Đức Phật và Phật pháp.

3. KIMURA TAIKEN (Thích Quảng Độ dịch), Tiểu Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận.

4. KIMURA TAIKEN (Thích Quảng Độ dịch), Đại thừa Phật giáo Tư tưởng Luận.

5. Thích Nhật Từ, Niết bàn: Bản Chất và Mục Tiêu Giác Ngộ (từ Internet).

Chú thích:

[1] NARADA, Phạm Kim Khánh dịch, Đức Phật và Phật Pháp, Pháp viện Minh Đăng Quang ấn tống, 1970, tr.511.

[2] KIMURA TAIKEN, Thích Quảng Độ dịch, Nguyên Thủy Phật giáo tư tưởng luận, Khuông Việt, tr.416.

[3] narada (phạm kim khánh dịch), đức phật và phật pháp, pháp viện minh đăng quang ấn tống, 1970, tr. 512-517; nguyên thủy tư tưởng luận, tr.420-425.

[4] Woodward, Verses Of Uflift, p.56-67.

[5] Questions of king Milindapanda., p.202-204.

- Xem thêm video: "Tự tại trước khen chê":

Ni sư Tín Liên

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/giai-thoat-quan-phat-giao-d42145.html)

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY