Kinh kim cang bát nhã ba la mật đa thuộc quyển thứ 577 của bộ đại bát nhã ba la mật 600 quyển và thuộc hội thứ 9 trong 16 hội. địa điểm giảng kinh kim cang ở tại khu vườn của trưởng giả cấp cô độc (anathapindika), phía nam kinh thành xá-vệ (sravasti), trung ấn độ. lúc ấy ở trung quốc, nhằm triều đại nhà châu, vua mục vương năm thứ 9.
Kinh kim cang bát nhã ba la mật đa (vajra-prajnaparamita sutra) do ngài cưu-ma-la-thập (kumarajiva)dịch từ phạn ra hoa. hòa thượng thích trí tịnh dịch từ hoa ra việt ngữ. kinh kim cang và bát nhã tâm kinh là tóm gọn những thâm ý áo nghĩa của toàn bộ đại bát nhã 600 quyển.
Tựa đề kim cang bát nhã ba la mật được chia làm bốn phần như sau: 1) kim cang (vajra), 2) bát nhã (prajna), 3) ba la mật (paramita), và 4) kinh (sutra)
1) kim cang (kim cương): là một loại khoáng chất từ tinh hoa của đất đá. theo địa lý học 2, nguồn gốc của kim cương là chất lỏng nóng từ núi lửa chảy ra, gặp khí hậu lạnh kết lại thành đá và trải qua một thời gian rất lâu từ 1 đến 3.3 triệu năm, mới kết tinh lại thành chất kim cương trong sán góng ánh như pha lê. dr. friedrich mohs nói rằng quá trình hình thành rất lâu năm nên kim cương có độ cứng chắc là 10 trong khi các loại đá khác thì độ cứng chắc chỉ từ 1 đến 93. do đẹp như pha lê, bền chắc hoàn hảo và rất khó kết thành nên kim cương rất quý giá và hiếm có trên thế gian. vì những tính chất ưu tú này, đức phật đã mượn để đặt tên kinh là kinh kim cương.
Kim Cương chắc cứng bền vững là ý nói dù trải qua trăm kiếp nghìn đời, lưu chuyển trong sáu cõi của trời, người, a tu la, súc sinh, ngạ quỉ và địa ngục nhưng tính giác, tính hay biết của chúng ta vẫn không tan hoại hay biến mất. Kim cương trong sáng như pha lê là biểu tượng tính Phật sáng suốt thanh tịnh của chúng ta sẽ chiếu phá các màn lưới vô minh, tham ái, giận hờn, ích kỷ của thất tình, lục dục, từ vô thủy kiếp đến nay. Kim cương quý giá như vua của các loại đá là ý nói tâm của chúng ta quý giá hơn bất cứ những của cải vật chất, nhà cửa, danh lợi trên thế gian này.
3) ba la mật là phiên âm tiếng phạn, trung hoa dịch làđáo bỉ ngạn, nghĩa là đến bờ kia. chúng ta đang lặn hụp trong biển khổ phiền não, kinh kim cang này có khả năng giúp chúng ta vượt qua tam tai, bát nạn và các khổ của sáu loài để đến bờ giải thoát an lạc.
4) Kinh là lời Phật dạy hợp với chân lý (khế lý) và hợp với căn cơ thính chúng (khế cơ) trong tất cả mọi không gian và thời gian.
Kinh kim cang bát nhã ba la mật này công đức vô biên không thể nghĩ bàn bởi vì kinh này nói đến pháp lớn, công đức lớn, tức tính kim cang bát nhã. kinh kim cang nói về bản tính ở khắp mười phương pháp giới, không có ngần mé gọi là vô lượng vô biên. nói về không gian, tính kim cang là vô cùng, vô tận. nói về thời gian, tính kim cang không sinh không diệt, không có quá khứ, hiện tại, vị lai. bởi tính kim cang bát nhã có chức năng vượt không gian và thời gian như vậy, cho nên nếu sống với nó, chúng ta cũng được công đức vô cùng, vô tận suốt không gian, khắp thời gian ba thời. do đó, ai trở về với tính kim cang này thì công đức cũng không thể nghĩ bàn. bởi vì tính này rộng lớn như vậy, cho nên như lai nói những người nào tin và sống được với tính này là những người thích tu pháp lớn, công đức lớn, là những người phát tâm lớn, phát tâm đại thừa.
Chúng ta còn là chúng sinh nhưng nếu chúng ta hiểu được, tin được, cầu sống với tính kim cang chân không bát nhã thì gọi là phát tâm đại thừa, tối thượng thừa. tiểu thừa là cổ xe nhỏ, chở mình ra khỏi lửa sinh già bịnh ch*t. đại thừa là cỗ xe lớn, chở được nhiều người. chúng ta có lòng chẳng những muốn cho mình mà những người khác cũng hưởng được sự giải thoát an vui như mình. chúng ta có tâm rộng, mong cho mọi người hưởng được những quả báu tốt đẹp như mình, tức là chúng ta phát tâm thực hành hạnh đại thừa. phát tâm tối thượng thừa là cỗ xe đi xa lắm, đi tới cùng tận cho đến thành phật quả, tức là phát tâm cầu thành phật, khiến cho trí tuệ khai mở đến rốt ráo. kinh kim cang bát nhã ba la mật này là pháp tối thượng thừa viên đốn (vượt cả tiểu thừa và đại thừa), là kim chỉ nam của nhà thiền triệt để mạnh mẽ phá các chấp thủ về tướng, giúp chúng ta trực thẳng chân tâm, thấy tính thành phật.