Như câu “眾生, 即非眾生, 是名眾生 - Chúng sinh, tức phi chúng sinh, thị danh chúng sinh”; “世界, 即非世界, 是名世界 - Thế giới, tức phi thế giới, thị danh thế giới”; “弟一波羅密, 即非弟一波羅密, 是名第一波羅蜜 - Đệ nhất Ba la mật, tức phi đệ nhất Ba la mật, thị danh đệ nhất Ba la mật”, “莊嚴佛土,即非莊嚴佛土, 是名非莊嚴佛土 - Trang nghiêm Phật độ, tức phi Trang nghiêm Phật độ, thị danh Trang nghiêm Phật độ” … Kinh Kim Cang từ đầu đến cuối chẳng ngoài nghĩa ba câu này.
Câu thứ nhất chấp “是名眾生 - Thị chúng sinh” là đúng, câu thứ nhì quét câu thứ nhất nhưng lọt vào cái “非-Phi”, câu thứ ba “是名 - Thị danh” tức giả danh: Câu thứ nhất “是眾生 - thị chúng sinh” là giả danh, câu thứ nhì “非眾生 - Phi chúng sinh” là giả danh, câu thứ ba “是名眾生 - Thị danh chúng sinh” cũng là giả danh. Nên câu thứ ba quét câu thứ nhất, câu thứ nhất và quét luôn cả câu thứ ba, quét triệt để mới đúng là nghĩa ba câu.
Nghĩa ba câu với nghĩa tứ cú giống nhau, cũng là quét triệt để, chẳng trụ ở cú nào. Nếu chúng ta thấu suốt được, chẳng những nghĩa ba câu của Kinh Kim Cang, bất cứ kinh nào cũng vậy, không ngoài ý nghĩa ba câu và tứ cú kệ. Đối với vũ trụ vạn vật cũng thế: Cái tách, tức phi tách, thị danh tách; cái bình, tức phi bình, thị danh bình; cái ta, tức phi ta, thị danh ta; Phật, tức phi Phật, thị danh Phật v.v... chẳng ngoài nghĩa ba câu của Kinh Kim Cang vậy.