Bệnh thủy đậu do virut Varicella Zoster gây ra. Ban ngứa, sốt nhẹ, mệt mỏi có thể là dấu hiệu đầu tiên của bệnh. Bệnh thường gặp ở trẻ em và người lớn vào các mùa trong năm, đặc biệt bùng phát mạnh trong mùa đông - xuân, ở những trẻ có hệ miễn dịch kém hoặc suy giảm miễn dịch bệnh thường nặng, 90% người mắc bệnh đều do chưa tiêm phòng vắc-xin ngừa thủy đậu.
Triệu chứng của bệnh thủy đậuKhi bệnh khởi phát có sốt nhẹ (có khi sốt cao 39-40oC kèm viêm long đường hô hấp trên). Thời kỳ toàn phát, với triệu chứng nổi mụn nước ở vùng đầu mặt, chi và thân. Mụn nước xuất hiện rất nhanh, trong vòng 12-24 giờ có thể nổi toàn thân. Mụn nước có đường kính từ l-3mm, chứa dịch trong; tuy nhiên, những trường hợp nặng, mụn nước sẽ to hơn hay khi bội nhiễm vi khuẩn thì mụn nước sẽ có màu đục do chứa mủ.Ngoài mụn nước, trẻ nhỏ thường kèm sốt nhẹ, biếng ăn; trẻ lớn hơn thường kèm sốt cao, đau đầu, đau cơ, buồn nôn và nôn. Bệnh sẽ kéo dài từ 7-10 ngày nếu không có biến chứng, các nốt thủy đậu sẽ khô dần, bong vảy, thâm da nơi nổi mụn nước, không để lại sẹo, nhưng nếu bị nhiễm thêm vi khuẩn thì mụn nước có thể để lại sẹo. Người bị nhiễm bệnh có thể bị từ vài mụn thủy đậu cho đến vài trăm mụn trên thân thể.
Biến chứng của thủy đậuBản chất của bệnh thủy đậu là một bệnh lành tính nhưng không chăm sóc và điều trị đúng, bệnh có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm.Biến chứng viêm da do bội nhiễm vi khuẩn: Khi các nốt mụn vỡ, hoặc bị trầy xước, bong tróc có thể gây viêm nhiễm, sưng tấy, nhiễm khuẩn da, có mủ... gọi là bội nhiễm da thứ phát. Sau khi khỏi bệnh, các mụn thủy đậu này cũng để lại sẹo sâu trên da, rất khó hồi phục.Biến chứng viêm tai (viêm tai ngoài, viêm tai giữa) viêm thanh quản, viêm phổi... Các mụn rộp của thủy đậu có thể mọc trong tai, gây viêm nhiễm ống tai, mọc trong họng gây đau loét họng. Một số trường hợp nặng có thể viêm cầu thận cấp. Biến chứng nặng nhất là viêm não ảnh hưởng tới sức khỏe lâu dài của trẻ.
Điều trị bệnh thủy đậuKhi trẻ sốt cao, cần cho uống Thu*c hạ nhiệt: paracetamol...; uống Thu*c an thần chống co giật; chống ngứa bằng các Thu*c kháng histamin. Khi có bội nhiễm, dùng kháng sinh thích hợp. Đặc biệt chú ý tới công tác chăm sóc: xử lý tốt các nốt phỏng, nốt loét, đề phòng bội nhiễm. Vệ sinh da - giữ cho da khô sạch, không để cho trẻ gãi. Các nốt loét chấm dung dịch xanh methylen hoặc Thu*c tím milian, mặc quần áo vải mềm, sạch sẽ; vệ sinh răng miệng bằng nước muối S*nh l*; vệ sinh tai mũi họng; ăn uống đủ dinh dưỡng, giàu các loại vitamin để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Phòng bệnh thế nào?Người lớn có thể lây bệnh từ trẻ nếu chưa mắc hoặc chưa tiêm phòng, hoặc là trở thành trung gian truyền bệnh. Do đó, khi chăm sóc trẻ cũng cần chú ý để không bị lây bệnh. Những đồ dùng như quần áo, khăn mặt của người bệnh cần được ngâm giặt bằng xà phòng, phơi nắng hoặc sấy khô diệt khuẩn. Theo GS. Nguyễn Trần Hiển, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, bệnh ở người lớn thường diễn biến nặng hơn ở trẻ. Tỷ lệ Tu vong ở người lớn khoảng 1/100.000 người, cao hơn ở trẻ 5-9 tuổi gấp 30-40 lần. Nên nhớ, bệnh thủy đậu lây lan rất nhanh. Ngay trong thời kỳ ủ bệnh, tức trước khi có ban xuất hiện đã có thể lây bệnh cho người khác. Bệnh lây mạnh nhất vào thời điểm trước sốt 4 ngày và sau sốt 4 ngày. Do đó cần cách ly người bệnh để đề phòng lây lan cho người xung quanh.
Làm gì khi con bị thủy đậu?Thấy con
bị thủy đậu, nhiều gia đình cho rằng chấm ngay Thu*c xanh-methylen vào các mụn nổi nốt. Việc làm này khi nốt phỏng chưa vỡ là không cần thiết, trẻ cũng không thích, trông nhem nhuốc. Chỉ khi nốt phỏng vỡ thì chấm trực tiếp Thu*c xanh methylen vào nốt vỡ để sát khuẩn và làm se khô nốt giúp ngừa bội nhiễm vi khuẩn. Bên cạnh đó, nhiều cha mẹ cho rằng, khi bé
bị thủy đậu phải tuyệt đối kiêng nước, kiêng gió nên không tắm, lau rửa cho trẻ. Đây là một sai lầm. Thay vào đó, cha mẹ cần tắm cho con bằng nước ấm, chú ý không tắm lâu như khi trẻ khỏe mạnh. Cũng không nên mua các loại lá về tắm cho trẻ do da trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ sơ sinh rất mỏng, cấu trúc chưa ổn định. Ngoài ra, chú ý giữ sạch tay và cắt ngắn móng tay, tránh gãi vì gãi làm nốt phỏng bị vỡ, có thể dẫn đến bội nhiễm vi khuẩn.
Tiêm chủng là biện pháp hữu hiệu nhất để phòng ngừa bệnh thủy đậu:Tất cả trẻ em từ 12-18 tháng tuổi được tiêm 1 lần.
Trẻ em từ 19 tháng tuổi đến 13 tuổi chưa từng
bị thủy đậu lần nào cũng tiêm 1 lần.
Trẻ em trên 13 tuổi và người lớn chưa từng
bị thủy đậu lần nào thì nên tiêm 2 lần, nhắc lại cách nhau từ 4-8 tuần.
Nếu đã được tiêm phòng vắc-xin thủy đậu thì đại đa số (80-90%) có khả năng phòng bệnh tuyệt đối. Vắc-xin thủy đậu có hiệu quả cao và lâu dài, giúp cơ thể tạo kháng thể chống lại virut thủy đậu, Tuy nhiên, khoảng 10% còn lại là có thể
bị thủy đậu sau khi tiêm chủng, nhưng các trường hợp này cũng chỉ bị nhẹ, với rất ít nốt đậu, khoảng dưới 50 nốt và thường không bị biến chứng.
BS. Bùi Quỳnh Trang