Thể này của luput ban đỏ là một viêm dạng đĩa khu trú của da, thường ở những vùng tiếp xúc với ánh sáng. Nguyên nhân chưa biết.
Thường không có triệu chứng. Có một hoặc nhiều thương tổn, màu đỏ thẫm, ranh giới rõ, có kích thước 5 - 20 mm đường kính, khu trú chủ yếu ở mặt. Đầu, vành tai và niêm mạc cũng có thể bị. Thương tổn thường được phủ bởi lớp vảy dính, khô và có các nón sừng, có dày sừng, có teo da, và giãn mạch.
Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống. Rất hiếm bệnh nhân có nhạy cảm với ánh sáng và có hình ảnh lâm sàng rõ của một luput ban đỏ mà xét nghiệm ANA thì âm tính nhưng lại dương tính với kháng thể chống Ro/SSA. Xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang trực tiếp thấy có kháng thể kháng màng đáy nhưng có thể có dương tính giả ở những vùng da tiếp xúc với ầnh sáng.
Chẩn đoán dựa vào hình ảnh lâm sàng kết hợp với sinh thiết thông thường ở hầu hết các trường hợp. Vảy da khô giống "đinh bấm" và có thể phân biệt với vảy của viêm da dầu và vảy của vảy nến. Những thương tổn cũ mà để lại sẹo (cổ điển ở vùng loa tai) hoặc những vùng có rụng tóc cũng sẽ phải phân biệt với luput ban đỏ. Những thương tổn đơn độc có thể giống ung thư tế bào đáy thể xơ hóa là thể rất hiếm gặp. Sinh thiết da sẽ giúp chẩn đoán. Luput ban đỏ dạng đĩa khác với luput lao bởi sự vắng mặt của u và loét. 10% bệnh nhân luput ban đỏ hệ thống có thương tổn dạng đĩa.
Tránh ánh nắng đối với bệnh nhân nhạy cảm. Chú ý: Không được điều trị bằng bất cứ một loại tia nào. Tránh dùng các loại Thu*c gây nhạy cảm với ánh sáng (thiazid, piroxicam, doxycyclin) nếu có thể.
Nên dùng thử các loại Thu*c bôi như sau trước khi dùng Thu*c toàn thần: kem corticosteroid mạnh bôi vào buổi tối rồi băng bịt ni lông, hoặc băng Cordran, hoặc halobetasol propionat hoặc clobetasol propionat dạng kem hoặc mỡ ngày bôi hai lần không cần băng bịt.
Triamcinolon acetonid 2,5- lOmg/ml, tiêm vào thương tổn 1 lần / tháng. Nên điều trị thử bằng cách này trước khi dùng Thu*c toàn thân .
Chú ý: những loại Thu*c này chỉ nên dùng khi chẩn đoán đã chắc chắn, vì chúng có thể kết hợp làm vượng bệnh vảy nến, đây có thể nằm trong chẩn đoán phân biệt. Và Thu*c cũng có thể gây những biến đổi tràm trọng về mắt, cần kiểm tra mắt trước khi dùng Thu*c và kiểm tra thường kỳ 3 tháng một lần trong thời gian điều trị. Việc dùng Thu*c chống rốt rét cho trẻ em đang còn tranh cãi.
Hydroxychloroquin sulfat, 0,2 - 0,4g/ngày uống trong vài tuần, Thu*c có thể có tác dụng và thường dùng khi dùng chloroquin. Thường dùng thử trong 3 tháng.
Chloroquin sulfat, 250mg/ngày có thể có hiệu quả trong một vài trường hợp khi hydroxychloroquin không có tác dụng.
Quinacrin (Atabrine), 100mg/ngày, là Thu*c an toàn nhất trong nhóm Thu*c chống rốt rét, vì chưa có thông báo về tai biến mắt. Thu*c làm cho da có màu vàng nên nó không được chấp nhận dùng ở một số bệnh nhân.
Trong một nghiên cứu người ta cho isotretinoin 80mg/ngày, thấy có tác dụng làm cho thương tổn da và các xét nghiệm trở về bình thường ở các bệnh nhân luput ban đỏ mạn và luput ban đỏ bán cấp. Vì tác dụng gây quái thai nên không dùng Thu*c cho phụ nữ đang ở độ tuổi sinh đẻ không áp dụng các biện pháp Tr*nh th*i có hiệu quả. Cần được sự ưng thuận của bệnh nhân, cũng như phải làm phản ứng phát hiện thai trước khi điều trị loại Thu*c này.
Bệnh tồn tại lâu dài nhưng không nguy hiểm đối với cuộc sống của bệnh nhân trừ khi kết hợp với luput ban đỏ hệ thống, nhưng điều này ít xảy ra. Điều trị bằng Thu*c chống sốt rét có tác dụng trong 60% trường hợp. Mặc dù sự rắc rối do bệnh chỉ là vấn đề hình thức, đặc biệt gây chú ý ở những bệnh nhân có nước da sẫm màu và có thương tổn lan rộng.
Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh ban đỏ bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ chẩn đoán chống dịch dịch covid điều trị dự kiến khỏi bệnh mắc mới nâng cấp sở y tế thêm ca mắc Thêm ca mắc mới