Cây thuốc quanh ta hôm nay

Mướp đắng, làm Thuốc bổ máu

Cây có vị đắng, tính hàn, không có độc, tính giống Rau má; có tác dụng trừ tả nhiệt, giải lao, thanh tâm, sáng mắt. Quả có vị hơi đắng, tính hàn, không có độc

Mướp đắng, Khổ qua, Lương qua - Momordica charantia L., thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae.

Mô tả

Dây leo bằng tua cuốn. Thân có cạnh. Lá mọc so le, chia 5-7 thùy, mép khía răng, gân lá có lông ngắn. Hoa đực và hoa cái mọc riêng lẻ ở nách lá, có cuống dài. Cành hoa màu vàng nhạt. Quả hình thoi dài, mặt ngoài có nhiều u lồi, khi chín màu vàng hồng. Hạt dẹp, có màng đỏ bao quanh.

Bộ phận dùng

Quả, hoa, rễ - Fructus, Flos et Radix Momordicae Charantiae.

Nơi sống và thu hái

Loài cổ nhiệt đới, được trồng phổ biến để lấy quả làm rau ăn. Nếu dùng làm Thuốc thì chọn quả vàng lục, dùng tươi. Nếu cần hạt thì lấy ở những quả chín, phơi khô. Lá, rễ thường dùng tươi.

Thành phần hóa học

Trong quả có tính dầu rất thơm, glucosid, saponin và alcaloid momordicin; còn có các vitamin B1, C; caroten, adenin, betain. Hạt chứa dầu và chất đắng. Trong quả còn có các enzym tiêu protein.

Tính vị, tác dụng

Cây có vị đắng, tính hàn, không có độc, tính giống Rau má; có tác dụng trừ tả nhiệt, giải lao, thanh tâm, sáng mắt. Quả có vị hơi đắng, tính hàn, không có độc; lúc còn xanh nó có tính giải nhiệt, tiêu đờm, sáng mắt, mát tim, nhuận tràng bổ thận, nuôi can huyết, bớt mệt mỏi, trừ nhiệt độc, lợi tiểu, làm bớt đau nhức khớp xương; khi chín nó có tính bổ thận kiện tỳ, đường huyết. Dịch lá hơi nhuận tràng, hạ sốt. Quả và lá còn có tác dụng diệt giun; rễ dùng để thu liễm.

Công dụng

Quả được dùng làm Thuốc bổ máu, giảm sốt, giảm ho, trị giun, hạ đái đường. Còn dùng ngoài trị nhọt mủ, xát ngoài da cho trẻ em trị rôm sẩy.

Ở Trung Quốc, người ta dùng quả Khổ qua để trị đột quỵ tim, bệnh sốt, khô miệng, viêm hầu, bệnh ecpet mảng tròn.

Ở Ân Độ, dịch quả được dùng trị rắn cắn, quả (cả lá, rễ) dùng tốt trị bệnh đái đường do tác dụng làm giảm glucose huyết.

Ở Thái Lan, dịch quả dùng trị loét aptơ, còn quả dùng trị bệnh về gan và lá lách.

Lá trị mọi thứ đơn độc, đỏ tấy, vết thương nhiễm độc, viêm mủ da, trĩ đau và trị rắn cắn. Còn dùng chữa nhức đầu, đau óc và bạch đới hạ. Dịch lá được dùng ở Ân Độ trị bệnh về mật. Quả và lá dùng trị trĩ, phong cùi, vàng da và trị giun.

Rễ dùng chữa sốt và giải độc. Ở Ân Độ dùng trị trĩ (lòi dom).

Hoa, lá, rễ cũng được dùng trị lỵ, nhất là lỵ amíp, hoa còn dùng chữa đau dạ dày.

Hạt có tính bổ dương, tráng khí, dùng chữa ho, viêm họng, trẻ em lên cơn kinh giật do sốt cao hoặc kinh phong.

Ở Ân Độ, người ta còn dùng quả tán bột để hàn các vết thương, vết loét ngoan cố và ác tính.

Đơn Thuốc

Chữa ho, viêm họng: Nhai hạt Mướp đắng nuốt nước.

Chữa trẻ em đầu khô sủi vẩy trắng, chốc đầu: Dùng lá Đào nấu nước gội, rồi nhai quả và hạt. Mướp đắng xoa, hoặc giã nát bôi.

Chữa đau dạ dày: Hoa Mướp đắng, tán nhỏ uống (Lê Trần Đức).

Chữa nhọt độc sưng tấy và mụn nhọt đau nhức: Lá Mướp đắng 1 nắm, sắc uống với một chén rượu, hoặc phơi khô tán bột uống mỗi lần 12g với rượu. Ngoài giã lá tươi chưng nóng đắp vào (Dược liệu Việt Nam - Lê Trần Đức).

Chữa rắn cắn: Hạt và lá 4-8g, nhai nuốt nước, lấy bã đắp lên vết cắn (Dược liệu Việt Nam).

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/caythuocdongy/muop-dang-lam-thuoc-bo-mau/)

Tin cùng nội dung

  • Theo Đông y, hạt tơ hồng có vị ngọt, cay, tính ôn, vào 2 kinh can và thận có tác dụng bổ can thận, tráng dương, ích tinh tủy, mạnh gân cốt, thông tiểu, nhuận tràng, sáng mắt.
  • Vỏ gáo được nhân dân dùng làm Thuốc chữa sốt dưới dạng Thuốc sắc với liều 10 - 16g. Có thể dùng gỗ gáo thái mỏng, cũng sắc như vỏ gáo.
  • Người già yếu thuộc phạm trù chứng “hư lao” của y học cổ truyền. Chứng “hư lao” thì lấy nguyên khí hao tổn làm đặc trưng và có liên quan chặt chẽ đến “tiên thiên”[1]mạnh hay yếu và nhất là “hậu thiên”[2] có được đầy đủ hay không. Để chữa chứng hư lao thì phải dùng phép bổ.
  • Bị suy giáp uống thêm loại Thuốc bổ gan liệu có phải là một sự kết hợp hoàn hảo?
  • Văn học và y học dù tiến hành bằng phương tiện khác nhau, nhưng cũng đều xuất phát từ con người nhằm đến mục đích vì con người
  • Trong quan hệ T*nh d*c, đôi khi có những trục trặc mà ta không biết cách nào giải quyết.
  • Không ít người vì chưa hiểu rõ thế nào là Thuốc bổ thận tráng dương của YHCT nên hễ cứ nghe thấy “bổ dương” là uống lấy uống để chẳng cần đến các thầy Thuốc đông y bắt mạch.
  • Con trai tôi học lớp 3 bị tự kỷ - aspagor hang động - đang khám và điều trị ngoại trú theo đơn bác sĩ.
  • Oa ngưu là vị Thuốc từ loài ốc sên hoa (Achatina fulica) - là loài ốc lớn nhất trong họ ốc sên, sống ở trên cạn, nơi ẩm thấp, phổ biến trong các hốc cây, lùm bụi, nhất là ở hàng rào cây xương rồng ba cạnh. Đó là một động vật thân mềm (nhuyễn thể) có vỏ to, tháp có 5 - 6 vòng xoắn, vòng miệng phồng to và rộng.
  • Tôi mang thai được 2 tháng. Không hiểu sao tôi cảm thấy người rất nóng. Nghe nói mướp đắng là món ăn thanh nhiệt tốt, nhưng tôi vẫn e ngại không dám dùng vì có ý kiến lại nói mướp đắng độc với thai nhi. Vậy xin quý báo lời khuyên?
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY