Viêm là bệnh do vi khuẩn, điển hình là E.coli gây nên. Ngoài ra, cấu tạo giải phẫu của hệ tiết niệu cũng như tính chất nghề nghiệp và lối sống không khoa học cũng là nguyên nhân gây bệnh. Ở phụ nữ, niệu đạo ngắn hơn nam giới, *m đ*o và hậu môn tương đối gần nhau và nằm trên cùng một bình diện. Chính vì thế dễ bị lây nhiễm bệnh lý từ bộ phần này qua bộ phận kia.
Khi mang thai, do thay đổi cấu trúc của xương chậu, phụ nữ cũng bị mất nhiều nước hơn bình thường, giảm số lần đi tiểu là một trong những nguyên nhân để các vi khuẩn gây nên tình trạng viêm nhiễm. Bàng quang của thai phụ khi bị thai nhi chèn ép, không kiểm soát được việc tiểu tiện dẫn đến ứ đọng nước tiểu, tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập, sinh sôi và phát triển. Đây chính là nguyên nhân gây viêm đường tiết niệu. Với phụ nữ thì bệnh thường xuất hiện vào đầu tháng thứ tư của thai kỳ.
Biểu hiện của bệnh có những triệu chứng không rõ ràng nên nhiều chị em thường nhầm lẫn với những thay đổi của người mang thai thời kỳ đầu.
Một số triệu chứng đó là: Đau buốt hoặc nóng rát khi đi tiểu. Đi tiểu nhiều lần trong ngày. Đau xương chậu, đau lưng và bụng. Buồn nôn, nôn, thường dễ nhầm với ốm nghén. Run người, ớn lạnh, nóng sốt đổ mồ hôi.
Thể nhiễm khuẩn: Vi khuẩn đã xâm nhập và phát triển ở niệu đạo và không có triệu chứng rõ ràng, khó phát hiện. Có thể gây viêm thận, bể thận nếu không phát hiện và điều trị kịp thời.
Thể viêm bàng quang: Vi khuẩn lúc này đã bắt đầu phát triển rộng ra. Thai phụ sẽ có cảm giác đau buốt khi đi tiểu, bí tiểu hoặc tiểu nhiều, có khi tiểu ra máu,...
Viêm thận, bể thận cấp: Đây là thể nặng nhất của viêm đường tiết niệu. Cùng với các triệu chứng trên, người bệnh thường sốt cao, mệt mỏi... Cơ thể thai phụ lúc này bị suy nhược nhanh dẫn tới suy hô hấp, suy tuần hoàn gây suy thai và có thể dẫn đến sinh non.
Tùy từng thai phụ mà các bác sĩ sẽ có chỉ định khác nhau, đối với thể nhiễm khuẩn không có triệu chứng và thể viêm bàng quang, thai phụ có thể điều trị ngoại trú tại nhà dưới sự theo dõi, hướng dẫn của thầy Thu*c. Sử dụng các loại Thu*c kháng sinh không có hại cho thai nhi. Sau đợt điều trị, cần phải kiểm tra lại nước tiểu.
Đối với thể viêm thận - bể thận cấp, thai phụ cần được điều trị tích cực trực tiếp tại bệnh viện. Cần có sự theo dõi và chăm sóc trực tiếp của các bác sĩ chuyên khoa. Tại đây, thai phụ sẽ được tiến hành khám đầy đủ, làm các xét nghiệm đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn và chức năng thận, làm siêu âm kiểm tra hệ tiết niệu, siêu âm kiểm tra xem có bị ảnh hưởng tới thai nhi hay không... Muốn điều trị có kết quả tốt bệnh nhiễm khuẩn nên sử dụng kháng sinh theo kết quả kháng sinh đồ. Tuy nhiên, cần tuân thủ nghiêm ngặt theo đơn Thu*c của bác sĩ, tránh lạm dụng Thu*c kháng sinh cũng có ảnh hưởng không tốt tới thai nhi. Bên cạnh đó, cần có sự chăm sóc về sản khoa như kiểm tra thai, theo dõi tim thai... Nếu có nguy cơ sẩy thai thì sử dụng Thu*c chống co bóp tử cung (theo chỉ định của thầy Thu*c)...
Phụ nữ cần kiểm tra nước tiểu định kỳ 3 tháng/lần để theo dõi, phát hiện sớm bệnh. Cần chú ý vệ sinh bộ phận Sinh d*c hàng ngày, không nên cố nhịn tiểu khi muốn tiểu, nên đi tiểu ngay sau khi giao hợp, sau khi đi đại tiện. Khi vệ sinh vùng âm hộ - hậu môn thì nên vệ sinh từ trước ra sau. Cần khám ngay khi có dấu hiệu viêm tiết niệu (đái buốt, đái dắt, đái nhiều lần).
Ngoài ra, bà bầu nên uống đủ nước để giúp nước tiểu không cô đặc phòng sỏi hệ tiết niệu.
BS. Nguyễn Kim Sơn