Cây nhỡ, cao 4 - 6m. Cành tròn, có khía rãnh không đều, cành non có lông ráp màu đỏ. Lá mọc so le, thường tụ họp ở ngọn cành; phiến lá hình trái xoan ngược hay hình bầu dục có chóp nhọn sắc, nhẵn, mép lá lượn sóng, hai mặt lá đều có lông ráp. Hoa nhỏ, màu hồng nhạt, họp thành cụm hoa hình xim hai ngả ở nách lá đã rụng; cuống hoa 1 - 4, hình sợi; lá đài 5, xoan tù; cánh hoa 5, xoan tù, hơi dính ở gốc, nhị đính ở dưới gốc cánh hoa; bầu nhẵn, hình trứng, có 3 cạnh, phía trên có một cột vòi nhuỵ mảnh do 3 - 4 vòi nhuỵ đính lại với nhau làm một ở gốc tạo thành. Quả chín màu trắng tím, có thịt nhầy.
Loài phân bố ở Nam Trung Quốc, Ấn Độ, Malaixia và Việt Nam. Cây mọc rộng rãi ở nhiều tỉnh phía Bắc: Lào Cai, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Bắc, Ninh Bình, thường gặp ở ven các suối trong rừng thứ sinh. Thu hái quả khi chín, vỏ cây thu hái quanh năm, tốt nhất vào mùa xuân.
Vị hơi đắng, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt giải độc, sinh cơ giảm đau, sơ phong chỉ khái. Quả có tác dụng khai vị, làm ăn ngon. Vỏ có tính giải độc, làm tiêu sưng.
Quả dùng ăn sống. Dân gian thường dùng vỏ giữa của thân thái mỏng, giã ra lấy nước uống, bã đắp chữa rắn cắn, cũng dùng đắp các vết sưng tấy, sai khớp.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), vỏ và hạt được dùng trị viêm gan mạn tính, đau răng do phong hoả, ho do phong nhiệt, bỏng lửa.
Nguồn: Internet.Chủ đề liên quan:
8 bệnh nhân 8 bệnh nhân khỏi bệnh bệnh nhân Bệnh nhân khỏi bệnh ca mắc ca mắc mới Các biện pháp các cơ chống dịch dịch covid dự kiến gan khỏi bệnh mắc mới nâng cấp sở y tế thêm ca mắc Thêm ca mắc mới trị viêm trị viêm gan