Trong thực tế có nhiều trường hợp chỉ giảm một hoặc hai dòng tế bào. Trường hợp tủy giảm hẳn (bất sản) cả 3 dòng tế bào gọi là suy tủy xương toàn bộ.
- Nhiễm độc: Một số chất dễ gây suy tủy là các dẫn xuất Hydrocarbure có nhân thơm (Benzen, Tobuen). Một số Thu*c như Chloramphenicol các dẫn xuất Pyrazol: Mephenytoin, Diphenylhydantoin các Sulfamid, muối vàng và nhiều Thu*c khác là những chất có thể gây suy tủy.
- Virus, vi khuẩn: Thấy có mối liên quan giữa viêm gan với những trường hợp suy tủy xương diễn biến nặng (suy tủy sau viêm gan) thường gặp ở người trẻ. Ngoài ra một số virus như Epstein. Nhiều trường hợp suy tủy khi bị lao, đa phần hết suy tủy sau khi điều trị khỏi lao.
- Do miễn dịch: Nhiều trường hợp không tìm thấy nguyên nhân trực tiếp dẫn đến suy tủy xương và người ta cho rằng có liên quan tới cơ chế tự miễn.
- Khởi phát: Thường bệnh diễn biến từ từ, biểu hiện là các triệu chứng thiếu máu, xuất huyết và nhiễm trùng. Tuy nhiên cũng có trường hợp khởi phát rầm rộ, đủ các triệu chứng, thường gặp ở suy tủy do nhiễm độc.
- Toàn phát: Bệnh nhân suy tủy toàn bộ có thể có một, hai hoặc cả ba hội chứng: Thiếu máu, xuất huyết, nhiễm trùng.
+ Thiếu máu: 100% bệnh nhân suy tủy có thiếu máu. Thường biểu hiện các triệu chứng thực thể là thiếu máu nặng: Da rất xanh, niêm mạc rất nhợt, tim có tiếng thổi tâm thu, tuy nhiên các triệu chứng cơ năng không trầm trọng lắm, có thể do quá trình thích nghi lâu dài với thiếu máu.
+ Xuất huyết: Một tỷ lệ khá cao (khoảng 30 - 40%) có biểu hiện xuất huyết. Ban xuất huyết dưới da và xuất huyết niêm mạc. Có thể có xuất huyết nặng như chảy máu não, màng não.
+ Nhiễm trùng: 20% bệnh nhân suy tủy xương có biểu hiện nhiễm trùng đa số bị nhiễm trùng hô hấp, viêm da, viêm lợi...
Có một tỷ lệ suy tủy có nguyên nhân vì vậy cần chú ý tìm các nguyên nhân nhất là các Thu*c, hóa chất liên quan để có biện pháp xử lý.
- Điều trị nội khoa bằng Thu*c ức chế miễn dịch: Corticoid, cyclosporin, ATG, ALG, cyclophosphamid.
- Điều trị triệu chứng bằng các chế phẩm máu: Truyền khối hồng cầu khi thiếu máu nặng. Căn cứ truyền máu dựa vào mức thiếu máu (nồng độ HST) tuy nhiên cần căn cứ biểu hiện lâm sàng vì bệnh nhân có thể thích nghi khác nhau với tình trạng mất máu. Truyền khối tiểu cầu khi giảm tiểu cầu nặng hoặc bệnh nhân có nguy cơ xuất huyết nguy hiểm. Khối bạch cầu hạt được xem xét sử dụng khi bạch cầu quá thấp, bệnh nhân nhiễm trùng nặng, điều trị kháng sinh không hiệu quả.
Chủ đề liên quan:
nCoV Sức khỏe toàn dân sức khỏe việt nam suy tủy suy tủy xương tủy xương Viêm phổi cấp virus corona