Chuyên ngành hôm nay

Chuyên ngành

Tăng acid uric máu - Khi nào cần điều trị?

Tăng acid uric máu trong cộng đồng khá phổ biến. Nếu cách đây 2 thập niên, tình trạng tăng acid uric ở người Việt Nam ước tính chỉ 1 - 2% thì hiện nay, tỷ lệ đó đã tăng lên nhiều.

Vậy câu hỏi đặt ra là nguyên nhân của tình trạng tăng acid uric máu là gì, khi nào thì phải điều trị tình trạng tăng acid uric máu không triệu chứng.

Bình thường lượng acid uric trong máu luôn được giữ ổn định ở nồng độ dưới 7,0 mg/dl (420 micromol/l) và được giữ ở mức độ hằng định do sự cân bằng giữa quá trình tổng hợp và đào thải chất này. bất kỳ nguyên nhân nào làm mất cân bằng hai quá trình tổng hợp và đào thải này, chẳng hạn tăng tổng hợp acid uric hoặc giảm thải trừ acid uric đều làm tăng acid uric trong máu.

Được coi là tăng acid uric máu khi lượng acid uric trong máu tăng cao hơn giới hạn bình thươờng (tùy theo chỉ số của mỗi phòng xét nghiệm, tuổi, giới), thường ở nam là trên 7,0mg/dl (hay trên 420 micromol/l), ở nữ trên 6,0mg/dl (360 micromol/l).

Tăng acid uric máu và bệnh Gout

Gout là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa, gây ra bởi tình trạng lắng đọng các tinh thể urat ở các mô của cơ thể, do tăng acid uric trong máu. tuy nhiên không phải bất kỳ ai tăng acid uric máu đều bị bệnh gout.

Hiện nay có một thực tế là rất nhiều người, kể cả các bác sĩ không phải chuyên khoa, cho rằng cứ tăng acid uric máu là bệnh gout và cho điều trị luôn. đây là quan niệm sai lầm vì chỉ coi là có bệnh gout khi tăng acid uric máu đi kèm với sự lắng đọng acid uric và gây tổn thương ở khớp hay những tổ chức khác.

Nguyên nhân tăng acid uric máu

Về nguyên nhân tăng acid uric máu người ta thấy có một số nguyên nhân chính sau đây:

Nhóm suy giảm khả năng bài xuất acid uric ở ống thận tiên phát đa nguyên nhân, đặc biệt trong trường hợp ăn nhiều thức ăn chứa nhân purin, nghiện rượu. loại này thường có tính chất gia đình, khởi phát thường do uống quá nhiều rượu. đây là nhóm hay gặp nhất (90% các trường hợp).

Nhóm tăng tạo acid uric nguyên phát (bẩm sinh). đây là nhóm nguyên nhân hiếm gặp (dưới 1%) do có các bất thường về enzym: thiếu hụt hoàn toàn hoặc một phần enzym hypoxanthine guanine phosphoribosyltransferase (hgprt), hoặc do tăng hoạt tính của enzym phosphoribosylpyrophosphate (prpp).

Nhóm nguyên nhân còn lại (chiếm khoảng 10%) là tình trạng tăng acid uric thứ phát: do tăng sản xuất acid uric do ăn uống nhiều thức ăn có nhân purin (đặc biệt các thịt màu đỏ như chó, bò, dê, cá biển...); uống nhiều rượu; do tăng hủy tế bào gặp trong bệnh đa u tủy xương, thiếu máu tan máu, bệnh bạch cầu (leucemia), dùng hóa chất gây độc tế bào điều trị ung thư; bệnh vẩy nến... tăng acid uric thứ phát còn do giảm bài tiết acid uric ở thận. nhóm này có các nguyên nhân như nghiện rượu, suy thận mạn tính, tăng huyết áp, tình trạng nhiễm toan ceton trong đái tháo đường hay nhịn đói lâu ngày, tình trạng nhiễm toan lactic ở người nghiện rượu.

Một trong nhứng nguyên nhân gây giảm bài tiết acid uric là do sử dụng Thu*c. các Thu*c thường gặp là aspirin liều thấp; phenylbutazone liều thấp; đa số các Thu*c lợi tiểu dùng kéo dài (trừ nhóm spironolactone) như thiazide, furosemide; Thu*c điều trị lao như ethambutol, pyrazinamind; các Thu*c acid ethacrynic, acid nicotinic...

Điều trị thế nào?

Lợi ích của việc điều trị tình trạng tăng acid uric máu ở những bệnh nhân đã bị cơn gout là điều đã được chứng minh. nó góp phần hạn chế, ngừng các cơn gout cấp tái phát cũng như biến chuyển bệnh thành gout mạn tính có hạt tophi, sỏi thận - suy thận do gout. tuy nhiên trong trường hợp tăng acid uric máu không triệu chứng thì còn nhiều tranh cãi. có nên điều trị hạ acid uric hay không, điều trị như thế nào. qua nhiều nghiên cứu cho thấy không có những bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ việc dùng Thu*c hạ acid uric trong trường hợp này. ngược lại với lợi ích ít ỏi thu được là việc bệnh nhân phải mất nhiều chi phí cho điều trị cũng như tăng nguy cơ mắc nhiều biến chứng do dùng Thu*c.

Trong trường hợp tăng acid uric không triệu chứng nên tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ, chỉ dùng Thu*c khi nồng độ acid uric máu quá cao trên 10-12mg/dl (khoảng 700 micromol/l) hoặc khi có sự sản xuất acid uric cấp tính. có thể dùng liệu pháp dự phòng tình trạng tăng acid uric máu ở những trường hợp dự đoán trước là sẽ có tình trạng tăng acid uric nhiều cấp tính như trên. khi đó lợi ích thu được chủ yếu là tránh được tình trạng suy thận cấp do tăng lắng đọng tinh thể urat ở ống thận.

Các trường hợp xét nghiệm thường xuyên có tình trạng tăng acid uric trên 10mg/dl mà kháng với các biện pháp điều chỉnh chế độ ăn uống, hoặc có tiền sử gia đình bị gout, bị sỏi thận kèm tăng acid uric máu, có dấu hiệu tổn thương thận đều cần phải dùng các Thu*c giảm acid uric. lưu ý không dùng Thu*c nhóm tăng thải acid uric như probenecid (benemid) qua thận ở những bệnh nhân có một trong các biểu hiện sau: tiền sử hoặc đang có sỏi thận, suy thận, có hạt tophi và giảm bài tiết urat qua thận.

Tất cả các trường hợp tăng acid uric máu không có triệu chứng khác ở mức độ trung bình (dưới 10mg/dl) đều cần thực hiện các chế độ ăn uống sinh hoạt hợp lý như với các bệnh nhân bị gout mà chưa cần dùng Thu*c hạ acid uric máu.

Lưu ý, nếu như trong thực tế gặp các trường hợp xét nghiệm máu mà có tăng acid uric nhưng không có biểu hiện bệnh gout trên lâm sàng, bệnh nhân nên đến chuyên khoa cơ xương khớp để có được tư vấn thích hợp.

BS. Hải Bình

Mạng Y Tế
Nguồn: Sức khỏe đời sống (http://suckhoedoisong.vn/tang-acid-uric-mau-khi-nao-can-dieu-tri-n146866.html)
Từ khóa: điều trị

Chủ đề liên quan:

acid uric điều trị tăng acid uric

Tin cùng nội dung

  • Ung thư và quá trình điều trị ung thư sẽ làm thay đổi khẩu vị. Nên chọn các thực phẩm giàu đạm và trình bày đẹp mắt để giúp cho khẩu vị ngon hơn
  • Phần lớn những tác dụng phụ liên quan đến việc ăn uống do điều trị ung thư sẽ biến mất sau khi kết thúc quá trình điều trị. Vài lời khuyên cho một chế độ ăn uống tốt sau trị liệu ung thư.
  • Cơ thể cần thêm năng lượng và chất dinh dưỡng để lành vết thương, chống nhiễm trùng và phục hồi sau phẫu thuật. Nếu bệnh nhân bị thiếu hoặc suy dinh dưỡng trước khi mổ, quá trình hồi phục có thể gặp trở ngại.
  • Khi ung thư hay việc điều trị ung thư gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường, những thay đổi là cần thiết để cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân. Thu*c có thể được dùng để kích thích khẩu vị.
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY