Sức khỏe và đời sống hôm nay

Sức khỏe và đời sống

Viêm khớp vảy nến- Bệnh tưởng không đáng lo ngại nhưng biến chứng nguy hiểm

(MangYTe) - Viêm khớp vảy nến là bệnh lý viêm khớp mạn tính ở các khớp ngoại biên hoặc cột sống, có liên quan đến bệnh vảy nến. Đây là một bệnh tự miễn, trong đó hệ miễn dịch tạo ra các đáp ứng viêm dẫn đến các triệu chứng như sưng, đau, cứng khớp và mệt mỏi.

Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, tỉ lệ hiện mắc của viêm khớp vảy nến chưa có thống kê chính xác, nhưng ước chừng khoảng 0,3–1% dân số và tần suất mắc mới của bệnh từ 3,4 – 8 trường hợp trên 100.000 người.

Bên cạnh đó, trong số những người bị vảy nến có khoảng 6 – 42% sẽ tiến triển sang viêm khớp vảy nến. Bệnh có thể khởi phát ở bất kì độ tuổi nào nhưng thường xảy ra ở người từ 30 đến 50 tuổi. Hầu hết người bệnh viêm khớp vảy nến thường khởi phát khoảng 10-12 năm sau khi có tổn thương da. Tuy nhiên, viêm khớp vảy nến cũng có thể khởi phát trước hoặc cùng lúc với vảy nến da.

ThS BS. Phạm Huỳnh Tường Vy - Khoa Nội cơ xương khớp Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM (BV ĐHYD TPHCM) cho biết, nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, bệnh có thể diễn tiến nặng dẫn đến tổn hại chức năng của các khớp, biến dạng khớp, tàn phế, làm giảm chức năng hoạt động hằng ngày và ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống. Ngoài ra, bệnh có thể làm nặng hơn các bệnh lý kèm theo của người bệnh (nếu có) như tăng huyết áp, đái tháo đường, thiếu máu cơ tim, béo phì, viêm ruột… dẫn đến nhiều biến chứng làm tăng tỉ lệ Tu vong. Đồng thời, tiến triển của bệnh còn tác động lên tâm lý của người bệnh gây lo âu, trầm cảm, thậm chí Tu tu.

Hiện chưa xác định nguyên nhân dẫn đến bệnh viêm khớp vảy nến. Một số nghiên cứu cho rằng có thể do sự kết hợp giữa yếu tố di truyền, môi trường và yếu tố miễn dịch. Ngoài ra, bệnh có tính chất gia đình và có mối liên hệ với kháng nguyên HLA-B27 (thể cột sống) và các HLA-DR (thể nhiều khớp). Các tác nhân nhiễm khuẩn và chấn thương cũng có thể là yếu tố khởi phát bệnh. Viêm khớp vảy nến có thể tiến triển chậm với các triệu chứng nhẹ hoặc có thể tiến triển nhanh và nặng tuỳ theo từng trường hợp.

Người bệnh viêm khớp vảy nến thường gặp những triệu chứng như mệt mỏi, sưng, đau các gân, sưng ngón tay, ngón chân và đôi khi có hình ảnh như khúc dồi; cứng khớp, sưng, đau một hoặc nhiều khớp, giới hạn vận động khớp, cứng khớp buổi sáng; móng tay chân bị lõm, rỗ; tiêu chảy (viêm ruột), đỏ và đau mắt (viêm màng bồ đào). Các triệu chứng này có thể giống với các bệnh khớp khác như viêm khớp dạng thấp, gout, các thể viêm khớp cột sống… nên rất dễ nhầm lẫn. Do đó, việc chẩn đoán viêm khớp vảy nến chủ yếu dựa vào đánh giá của bác sĩ chuyên khoa và loại trừ các nguyên nhân khác. Cần khai thác các thông tin liên quan đến tiền căn bệnh lý, đặc biệt là vảy nến; thăm khám lâm sàng đánh giá viêm khớp, tổn thương móng và thực hiện một số cận lâm sàng như tổng phân tích tế bào máu, CRP, máu lắng, X quang khớp, MRI khớp để chẩn đoán.

Theo ThS BS. Phạm Huỳnh Tường Vy, viêm khớp vảy nến cần điều trị song song tổn thương da và khớp. Bên cạnh đó, cần kết hợp các biện pháp dùng Thu*c và không dùng Thu*c như giáo dục người bệnh, vật lý trị liệu phục hồi vận động hoặc ngoại khoa để chỉnh sửa, thay khớp ở giai đoạn muộn. Tùy vào tình trạng của người bệnh, bác sĩ sẽ chỉ định sử dụng các biện pháp điều trị phù hợp. Ở giai đoạn nhẹ, người bệnh thường được chỉ định sử dụng Thu*c gồm NSAID hoặc DMARD cổ điển. Nhóm Thu*c này giúp giảm triệu chứng và điều trị các tổn thương da và khớp. Nếu người bệnh không đáp ứng với các Thu*c nêu trên, bác sĩ có thể chỉ định người bệnh sử dụng Thu*c sinh học. Đây là phương pháp hiện đại và hiệu quả trong việc điều trị viêm khớp vảy nến giai đoạn nặng.

Cụ thể trường hợp người bệnh T.K.L, 58 tuổi ngụ tại tỉnh Đăk Lăk. Bà L. bị vẩy nến da 8 năm và đang điều trị bằng Thu*c tại địa phương. 4 năm gần đây người bệnh xuất hiện đau nhức nhiều khớp. Sau khi khám tại một bệnh viện tại TPHCM, người bệnh được chẩn đoán viêm khớp vẩy nến. Tuy nhiên vì chủ quan, bà L. không điều trị liên tục theo chỉ dẫn của bác sĩ mà tự ý uống một loại Thu*c nam. Khoảng 2 tháng nay, bà bị sưng đau nhiều ngày càng nhiều các khớp bàn tay, ngón tay, khớp liên đốt ngón tay, khớp cổ tay, khớp gối và khớp cổ chân 2 bên. Bên cạnh đó, tình trạng vẩy nến trên da ngày càng nặng, vẩy nến da toàn thân khiến bà không tự đi lại được.

Tháng 2/2020, bà L. đến khám tại BV ĐH Y Dược TPHCM. Tại Phòng khám Nội cơ xương khớp, người bệnh được chẩn đoán viêm khớp vẩy nến, ban đầu được điều trị với các Thu*c uống: Methotrexate, kháng viêm đồng thời được bác sĩ tư vấn dùng Thu*c sinh học sớm vì tình trạng viêm khớp và viêm da của người bệnh đều nặng. Sau 2 tháng điều trị với Thu*c DMARDs cổ điển và kháng viêm, người bệnh đáp ứng kém. Đến tháng 5/2020, bác sĩ chỉ định người bệnh điều trị bằng Thu*c sinh học. Hiện nay sau khi tiêm 5 mũi Thu*c sinh học, vẩy nến trên da người bệnh đã hết hoàn toàn, đau khớp giảm 90%, người bệnh có thể tự đi lại, sinh hoạt bình thường.

ThS BS. Phạm Huỳnh Tường Vy khuyến cáo, để đạt hiệu quả trong điều trị bệnh viêm khớp vảy nến, người bệnh cần tuân thủ điều trị, thường xuyên tái khám để bác sĩ theo dõi, đánh giá diễn tiến và điều chỉnh Thu*c phù hợp trong từng giai đoạn bệnh. Người bệnh không nên bỏ điều trị và tự ý điều trị các Thu*c mà không được bác sĩ chuyên khoa khuyến cáo. Bên cạnh điều trị dùng Thu*c và tuân thủ điều trị, người bệnh nên duy trì chế độ dinh dưỡng và luyện tập hợp lý.

Người bệnh viêm khớp vảy nến nên ăn nhiều rau xanh và trái cây tươi. Các thực phẩm này có thể làm giảm viêm, giúp người bệnh duy trì cân nặng hợp lý, tránh thừa cân làm tăng áp lực lên khớp. Nên giảm đường và chất béo, vì các chất này làm tăng quá trình viêm, thay vào đó nên thực hiện chế độ ăn có chất béo lành mạnh như cá, hạt… Về chế độ sinh hoạt, người bệnh nên tập thể dục đều đặn, vận động ít nhất 30 phút mỗi ngày giúp giúp các khớp được linh hoạt hơn và tăng sức cơ. Nên bỏ thói quen hút Thu*c lá, hạn chế rượu bia và tác nhân gây áp lực, căng thẳng.

PHA LÊ

Mạng Y Tế
Nguồn: Báo dân sinh (http://baodansinh.vn/viem-khop-vay-nen-benh-tuong-khong-dang-lo-ngai-nhung-bien-chung-nguy-hiem-20200819152644865.htm)

Tin cùng nội dung

  • Từ xưa đến nay, chữa bệnh đái tháo đường bằng ăn uống được coi là cách chữa cơ bản nhất, đó là thực hiện chế độ ăn kiêng theo yêu cầu của bác sĩ nhằm duy trì lượng đường cần thiết trong máu. Chế độ kiêng khem không có nghĩa chỉ được ăn một vài loại lương thực và thực phẩm mà là lựa chọn thực phẩm cung cấp đủ lượng calo cho cơ thể.
  • Trong y dược học cổ truyền, giấm là một vị Thu*c được dùng để chữa nhiều bệnh khác nhau, trong đó có bệnh tăng huyết áp. Đơn giản nhất là người ta dùng giấm ngâm với một số thực phẩm thông dụng để ăn hoặc uống hàng ngày. Sau đây, xin giới thiệu một số bài Thu*c có dùng giấm để bạn đọc tham khảo và áp dụng.
  • Theo y học cổ truyền, nam ngưu tất có vị đắng, chua, tính mát, có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu, tác dụng bổ thận, mạnh gân cốt được sử dụng để chữa viêm khớp
  • Viêm khớp dạng thấp là một tình trạng viêm mãn tính thường ảnh hưởng đến các khớp nhỏ ở bàn tay và bàn chân. Không giống như các tổn thương có tính hao mòn trong thoái hóa khớp, viêm khớp dạng thấp ảnh hưởng đến lớp lót trong của bao khớp, gây ra sưng đau, cuối cùng có thể dẫn đến mòn xương và biến dạng khớp.
  • Xét nghiệm dung nạp đường huyết, được sử dụng để chẩn đoán bệnh đái tháo đường týp 2, hoặc tình trạng rối loạn dung nạp đường huyết, tình trạng có thể dẫn đến bệnh đái tháo đường.
  • Phần lớn những tác dụng phụ liên quan đến việc ăn uống do điều trị ung thư sẽ biến mất sau khi kết thúc quá trình điều trị. Vài lời khuyên cho một chế độ ăn uống tốt sau trị liệu ung thư.
  • Mọi người đều cần có một chế độ ăn uống khoa học và thường xuyên tập thể dục để có sức khỏe tốt và ngăn ngừa bệnh tật. Bệnh nhân ung thư có những nhu cầu sức khỏe đặc biệt, bởi vì họ phải đối mặt với những nguy cơ liên quan đến tác dụng phụ muộn cũng như sự tái phát của căn bệnh này
  • Chế độ ăn uống lành mạnh và hợp lý sẽ giúp bạn phòng ngừa những nguy cơ mắc bệnh ung thư.
  • Thật không may, các món ăn đặc trưng và truyền thống của người Việt trong ngày Tết hình như lại chưa phù hợp với người thừa cân, béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường.
  • Hoa hòe là hòe mễ, mễ là hạt gạo, ý nói vị Thuốc từ hoa hòe, có kích thước chỉ bằng hạt gạo, nghĩa là còn ở dạng nụ hoa, mới được dùng làm Thuốc.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY