Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là bệnh nhiễm trùng màng trong tim, tổn thương chủ yếu là các van tim, nhưng lớp nội mạc của buồng tim, các mạch máu lớn cũng bị tổn thương trong bối cảnh lâm sàng chung, do nhiều tác nhân gây bệnh và nhiều đường vào khác nhau cuối cùng khu trú ở nội tâm mạc. Tổn thương với đặc trưng là loét và sùi nhất là các van tim, đứng hàng đầu là van hai lá rồi đến van động mạch chủ, van ba lá ít gặp hơn.
Viêm nội tâm mạc xảy ra trên các van tim, đa số bệnh nhân bị nhiễm khuẩn, tuổi thường gặp < 50, nam nhiều hơn nữ, 60-80% bệnh nhân có tiền sử bị bệnh tim trước đó chủ yếu là bệnh van tim, hay gặp van hai lá rồi đến van động mạch chủ, 10-20% do sa van hai lá, bệnh tim bẩm sinh.
Các bệnh tim thoái hóa cũng là cơ sở đưa đến viêm nội tâm mạc, đặc biệt là hẹp van động mạch chủ vôi hóa ở người già, hiếm hơn phì đại vách không đối xứng, hội chứng Marfan, hẹp van động mạch chủ do giang mai và 20 - 40% không có bệnh tim từ trước.
Viêm nội tâm mạc ở bệnh nhân tiêm chích M* t*y thường gặp ở nam giới trẻ tuổi không có bệnh tim. Da thường là nguồn lây nhiễm chủ yếu, trong đó van ba lá thường hay bị tổn thương nhất.
Viêm nội tâm mạc ở bệnh nhân mang van nhân tạo chiếm 10 - 20%, đa số là nam giới, van động mạch chủ thường bị hơn van hai lá, tổn thương thường cạnh van trên đường khâu van nhân tạo với vòng van. Bệnh thường xảy ra trong tuần đầu hay trong năm đầu sau phẫu thuật chiếm 1 - 2% trường hợp.
Viêm nội tâm mạc ác tính cấp: tiến triển nhanh, xuất hiện trên một nội tâm mạc lành, thể này nặng nề, gây Tu vong nhanh và thường trong bối cảnh nhiễm trùng huyết. Tổn thương giải phẫu bệnh là loét, ăn mòn, sau cùng là thủng các van, có thể đứt các dây chằng, loét sùi có thể gây nên áp xe ở một số phủ tạng như gan, lách, thận. Thể này được gọi là ác tính vì trước khi có kháng sinh Tu vong là 100%.
Viêm nội tâm mạc bán cấp nhiễm khuẩn Jaccoud-Osler: là tổn thương loét sùi xảy ra trên các bệnh van tim, tim bẩm sinh có trước. Vi khuẩn gây bệnh được phát hiện nhờ cấy máu hoặc giải phẫu tử thi với cấy mủ ở nơi tổn thương. Trước khi có kháng sinh, đây là một bệnh nặng Tu vong 100%, nhưng từ khi có kháng sinh tỉ lệ Tu vong có giảm nhưng vẫn còn là bệnh nặng.
Đa số trường hợp vi khuẩn gây bệnh là liên cầu, thường là liên cầu nhóm D, là vi khuẩn thường gặp trong Osler, ít nhạy cảm với penicillin. Liên cầu tan huyết α và liên cầu tan huyết β rất nhạy cảm với penicillin, ngoài ra còn gặp viêm nội tâm mạc do liên cầu. Hiện nay tụ cầu là vi khuẩn cũng hay gặp là do nhiễm trùng huyết sau nạo Ph* thai (loại này thường nặng, tỉ lệ Tu vong cao do đề kháng với nhiều loại kháng sinh). Ngoài ra cũng có thể gặp viêm nội tâm mạc do trực trùng Salmonella, Brucella.
Bệnh nhân thường bất đầu bởi sốt không rõ nguyên nhân trên bệnh nhân bị bệnh tim, vì vậy nếu bệnh nhân có mắc bệnh tim mà sốt không rõ nguyên nhân trên 10 ngày, kèm suy nhược cơ thể, kém ăn, xanh xao phải nghĩ đến viêm nội tâm mạc bán cấp nhiễm khuẩn (Osler), cần nghĩ đến bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và phải thăm dò chẩn đoán bằng cách:
Đôi khi bệnh có thể bắt đầu bằng một tai biến mạch máu não với liệt nửa người hay nhồi máu các phủ tạng.
Sốt và suy nhược cơ thể: sốt dao động kèm rét run hoặc sốt kiểu làn sóng, nhiệt độ 39 - 40 0C xen kẽ những đợt không sốt do đó phải cặp nhiệt mỗi 3 giờ một lần, da xanh, gầy và thiếu máu.
Nghe tim: bệnh tim từ trước thường không thay đổi. Theo thứ tự thường gặp là bệnh hở van động mạch chủ, hở van hai lá, hẹp van hai lá, bệnh van ba lá và van động mạch phổi hiếm gặp hơn. Bệnh tim bẩm sinh như còn ống động mạch, thông liên thất, hẹp động mạch phổi, hẹp dưới van động mạch chủ, hẹp eo động mạch chủ, tứ chứng Fallot.
Ngón tay dùi trống rất có giá trị chẩn đoán trên bệnh tim có sốt nhưng dấu hiệu này thường muộn, ngoài ra xuất huyết dưới da, niêm mạc cũng có thể gặp.
Lách to: thường 2 - 4 cm dưới bờ sườn, rất có giá trị chẩn đoán nhất là khi phối hợp với bệnh tim có sốt.
Siêu âm tim: hiện nay được coi là xét nghiệm có độ nhạy chẩn đoán cao, ngoài ra còn cho phép theo dõi tiến triển của bệnh. Với kỹ thuật siêu âm 2 bình diện người ta có thể xác định được sự hiện diện của tổn thương sùi trên các van tim, siêu âm có thể phát hiện được đứt dây chằng hay thủng van tim. Nếu thấy tổn thương sùi thì chẩn đoán chắc chắn mặc dù cấy máu âm tính, ngược lại không thấy tổn thương sùi không loại trừ chẩn đoán.
Bằng chứng vi sinh học: cấy máu dương tính nhưng không có đủ các tiêu chuẩn chính, cấy huyết thanh học nhiễm khuẩn cấp.
Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng bán cấp cấy máu âm tính chỉ khi cấy máu liên tục 9 lần trong 3 ngày trên nhiều môi trường khác nhau đều âm tính, nhưng có thể tìm thấy vi khuẩn trên các tổn thương khi giải phẫu tử thi.
Thường gặp trong 10-15% trường hợp, bệnh hay xuất hiện sau nhiễm trùng Sinh d*c, tiết niệu, bệnh đáp ứng với penicillin liều cao kết hợp với gentamicin, bệnh có xu hướng hay tái phát.
Chiếm 8 - 12% trường hợp. Biểu hiện lâm sàng với đái máu, ure máu cao, phù và tăng huyết áp, tiên lượng xấu.
Vô trùng tuyệt đối các dụng cụ phẫu thuật, các dụng cụ thăm khám. Sử dụng kháng sinh cho các bệnh nhân có bệnh tim mắc phải hoặc bệnh tim bẩm sinh khi có can thiệp thủ thuật hay phẫu thuật.
Khi chưa có kháng sinh, tỉ lệ Tu vong 100%, từ khi có kháng sinh tiên lượng có khá hơn, tuy nhiên tỉ lệ Tu vong còn cao 20 - 40%. Tiên lượng bệnh phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Tiến triển: thường khỏi trong các trường hợp điều trị sớm. Tuy nhiên di chứng của bệnh như viêm thận mạn với tăng ure máu, tai biến mạch máu não với liệt nửa người, tiên lượng còn phụ thuộc vào bệnh tim có trước và một số trường hợp Tu vong do suy thận hay tắc mạch.
Khi bệnh nhân vào điều trị tại khoa, người điều dưỡng phải quan sát và đánh giá tình trạng của bệnh nhân kịp thời, đồng thời có thái độ tiếp xúc tốt với bệnh nhân.
Qua khai thác các dấu chứng trên giúp cho người điều dưỡng có được chẩn đoán điều dưỡng. Người điều dưỡng cần phân tích, tổng hợp và đúc kết các dữ kiện để xác định nhu cầu cần thiết của bệnh nhân, từ đó đưa ra các chẩn đoán và lập ra kế hoạch chăm sóc. Khi lập kế hoạch chăm sóc phải xem xét đến toàn trạng bệnh nhân, đề xuất vấn đề ưu tiên, vấn đề nào cần thực hiện trước và vấn đề nào thực hiện sau.
Theo dõi một số xét nghiệm như: protein niệu, hồng cầu niệu, điện tim, siêu âm tim, ure và creatinin máu, nếu có bất thường phải báo cho bác sĩ ngay.
Bệnh nhân và gia đình cần phải biết về nguyên nhân, cách phát hiện bệnh và thái độ xử trí cũng như cách chăm sóc bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.
Biết được tiến triển và các biến chứng của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, cũng như cách phòng bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.
Nghỉ ngơi tại giường, hạn chế vận động. Các đồ dùng các nhân của bệnh nhân phải để một nơi thật thuận tiện để bệnh nhân dễ sử dụng, hạn chế vận động nhiều. Việc nghỉ ngơi tuỳ thuộc vào tình trạng bệnh nhân, nhất là tình trạng tim mạch.
Nước uống: cần căn cứ vào tình trạng suy tim, tình trạng phù hay tình trạng khó thở mà lượng nước đưa vào cho phù hợp từng bệnh nhân. Nếu không có tình trạng suy tim thì lượng nước đưa và kể cả ăn và uống khoảng 500 ml /ngày, cộng với lượng nước tiểu trong ngày.
Lượng đạm: cần tăng cường dinh dưỡng cho bệnh nhân, nói chung không có hạn chế protein trong những trường hợp này, tuy nhiên khi có tình trạng tăng ure máu thì lượng đạm cần hạn chế.
Vệ sinh hàng ngày cho bệnh nhân: hàng ngày vệ sinh răng miệng và da để tránh các ổ nhiễm khuẩn, phát hiện sớm các ổ nhiễm trùng để có hướng điều trị cho bệnh nhân. áo, quần, vải trải giường và các vật dụng khác phải luôn được sạch sẽ. Phải giúp bệnh nhân thông khí phổi tốt, tránh nằm lâu gây bội nhiễm phổi.
Thu*c dùng: thực hiện đầy đủ các y lệnh khi dùng Thu*c, như: các Thu*c tiêm, Thu*c uống. Trong quá trình dùng Thu*c nếu có bất thường phải báo cho bác sĩ biết.
Các xét nghiệm về nước tiểu: hàng ngày phải theo dõi kỹ số lượng nước tiểu và màu sắc. Lấy nước tiểu xét nghiệm phải đảm bảo đúng quy trình. Các xét nghiệm cần làm là: protein, các tế bào, vi trùng.
Dấu hiệu sinh tồn: hàng ngày phải theo dõi sát tình trạng mạch, nhiệt, huyết áp, nhịp thở của bệnh nhân.
Đánh giá tình trạng bệnh nhân sau khi đã thực hiện y lệnh và thực hiện kế hoạch chăm sóc so với lúc ban đầu, xem những vấn đề gì tốt vấn đề gì còn tồn tại hay những vấn đề gì phát sinh mới... của người bệnh để đánh giá và bổ sung vào kế hoạch chăm sóc, cụ thể:
Đánh giá chăm sóc điều dưỡng cơ bản có được thực hiện và có đáp ứng được với yêu cầu của người bệnh không?