Tử cung là bộ phận Sinh d*c quan trọng nhất đối với việc mang thai và sinh đẻ ở người phụ nữ. Một phụ nữ có tử cung bệnh lý, bất thường, thậm chí bẩm sinh không có tử cung vẫn có thể có hình dáng cơ thể và thực hiện được các hoạt động T*nh d*c như mọi phụ nữ bình thường khác nhưng có điều họ không thể có thai và sinh đẻ.
Tử cung là bộ phận Sinh d*c
quan trọng nhất đối với việc mang thai và sinh đẻ ở người phụ nữ. Một phụ nữ có
tử cung bệnh lý, bất thường, thậm chí bẩm sinh không có tử cung vẫn có thể có
hình dáng cơ thể và thực hiện được các hoạt động T*nh d*c như mọi phụ nữ bình
thường khác nhưng có điều họ không thể có thai và sinh đẻ.
Theo tài liệu của Bộ Y tế mới
đây nhất, hiện nay ở nước ta có khoảng gần 1 triệu cặp vợ chồng bị
vô sinh và
có dấu hiệu gia tăng trong những năm gần đây.
Nguyên nhân đứng hàng đầu gây
vô sinh hiện nay ở phụ nữ nước ta qua theo dõi và thống kê của các trung tâm
chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em từ trung ương tới địa phương là do tình trạng
viêm nhiễm đường Sinh d*c. Theo nghiên cứu của nhóm tác giả tại Bệnh viện Phụ
sản Trung ương và bộ môn Sản - Phụ Đại học Y Hà Nội với 14.000 cặp vợ chồng ở 8
vùng sinh thái trong cả nước thì tỷ lệ
vô sinh trong toàn quốc là 7,7%, trong
đó 3,9% là
vô sinh nguyên phát (chưa hề có thai lần nào) và 3,8% là
vô sinh thứ
phát (đã từng có thai ít nhất 1 lần). Như vậy tỷ lệ
vô sinh nguyên phát và thứ
phát xấp xỉ ngang nhau.
Viêm dính buồng tử cung và
phần phụ
Nguyên nhân gây
vô sinh thứ
phát thường gặp nhất là do tắc vòi tử cung và viêm dính buồng tử cung vì các
bệnh lây qua đường T*nh d*c, do nạo Ph* thai hoặc do đặt dụng cụ tử cung để
Tr*nh th*i trước đó không được vô trùng. Vòi tử cung bị tắc hoặc buồng tử cung
bị dính sẽ ngăn cản tinh trùng không tiếp cận được với trứng đã rụng khỏi buồng
trứng để thụ tinh. Trường hợp vòi tử cung không bị tắc hoàn toàn, nếu tinh
trùng từ tử cung vẫn lên được ống dẫn trứng để thụ tinh sẽ làm cho phôi thai
sau khi thụ tinh bị giữ lại tại đó không trở về buồng tử cung được gây nên chửa
ngoài tử cung (thai phát triển ngay tại ống dẫn trứng).
Trường hợp buồng tử cung bị
viêm dính sẽ làm cho tinh trùng không có đường đi lên vòi tử cung để thụ thai
với trứng. Nếu tinh trùng len lách lên để thụ tinh được với trứng mới rụng thì
phôi sau khi thụ tinh cũng không có nơi làm tổ vì hai mặt tử cung đã dính lại
với nhau (dính toàn bộ hay dính một phần). Với trường hợp tử cung dính ít, thầy
Thu*c chuyên khoa có thể dùng biện pháp chuyên môn tách phần dính và chọn biện
pháp thích hợp giúp cho hai mặt tử cung không bị dính trở lại; nhưng nếu tử
cung đã bị dính toàn bộ thì người phụ nữ không còn khả năng sinh sản và ngay
kinh nguyệt hàng tháng cũng không có nữa.
Phần phụ trong bộ phận sinh
dục nữ là danh từ chỉ các phần khác của bộ phận Sinh d*c không phải tử cung
như: buồng trứng, vòi trứng và các dây chằng. Gọi là “phần phụ” nhưng chỉ trừ
các dây chằng là không liên quan đến thụ thai, còn lại đều rất quan trọng,
không thể thiếu được trong việc thụ thai và sinh đẻ. Vì thế các phần phụ này
nếu bị viêm nhiễm thì cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng có thai và sinh
đẻ của người phụ nữ.
Làm thế nào để phát hiện phụ
nữ bị vô sinh?
Với một phụ nữ bình thường,
chưa sinh đẻ lần nào, khi đã có quan hệ T*nh d*c với chồng và cả vợ lẫn chồng
luôn sống bên nhau trong vòng một năm, đều mong muốn có con nhưng người vợ
không có thai thì có thể đã có nguyên nhân
vô sinh nguyên phát. Với cặp vợ
chồng đã từng có con, nhưng kể từ khi muốn có thai tiếp đã 6 tháng trở lên
không thụ thai được thì cũng phải nghĩ đến khả năng
vô sinh thứ phát.
Mọi trường hợp nghi ngờ vô
sinh cần được đi khám tại các cơ sở sản- phụ khoa để được thầy Thu*c tư vấn,
thăm khám, cho làm các xét nghiệm cần thiết và lựa chọn cách điều trị thích
hợp. Trường hợp
vô sinh nguyên phát có thể lý do không phải chỉ ở người vợ mà
có đến gần 50% là do người chồng. Vì thế khi khám
vô sinh thầy Thu*c cần phải
khám và xét nghiệm cho cả người chồng; trong khi nguyên nhân
vô sinh thứ phát
nhiều khả năng chỉ do người vợ. Tuy thế, ngay cả trường hợp
vô sinh thứ phát
cũng nên khám và xét nghiệm cho người chồng vì trong quá trình sinh sống, cơ
thể ngườì đàn ông có thể đã có những bất thường không có lợi cho việc sinh sản.
Trường hợp nghi ngờ
vô sinh
cần đi khám chuyên khoa càng sớm càng tốt, không nên để kéo dài vài ba năm hoặc
nhiều hơn. Khi tuổi người phụ nữ đã cao mới đi khám thì chức năng sinh sản lúc
này cũng đã giảm sút khiến các biện pháp hỗ trợ sinh sản cho họ lúc đó sẽ ít
kết quả hơn so với lứa tuổi dưới 30. Một tài liệu theo dõi số phụ nữ thụ tinh
trong ống nghiệm cho thấy những chị em ở lứa tuổi 35 - 38 chỉ có khoảng 25 -
30% đạt kết quả trong khi ở lứa tuổi dưới 30, tỷ lệ này từ 35 - 40%.
Xử trí giúp một cặp vợ chồng
bị
vô sinh hiện nay đã có nhiều tiến bộ và không phải chỉ ở các bệnh viện tuyến
trung ương mà đã có thể thực hiện được tại các bệnh viện chuyên khoa hoặc các
khoa sản nhiều bệnh viện tỉnh trong cả nước và đã giúp cho hàng vạn cặp vợ
chồng đạt niềm hạnh phúc.
BS. Phó Đức Nhuận