Tâm linh hôm nay

Yếu chỉ thiền tông (2)

Thiền thì chấp Tông mà đè giáo, kẻ học giáo môn thì chấp giáo mà khinh tông. Thật ra Tông lìa Giáo thì đọa nơi rỗng không, giáo lìa tông thì thành ra tạp loạn, Tông với Giáo như hai bánh của xe, chẳng thể phế bỏ bánh xe nào

2.- SỰ KHÁC BIỆT CỦA TÔNG MÔN VÀ GIÁO MÔN.


Tông môn, giáo môn phân ra riêng biệt bắt đầu từ Trung Quốc mà căn cứ nơi kinh Lăng Già. Phật bảo: “Đại Huệ ! Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác Bồ Tát, có hai thứ tướng thông: gọi là Tông thông với Thuyết thông, Nói Tông thông là do tự mình chứng đắc tướng thắng tiến, xa lìa ngôn thuyết văn tự vọng tưởng, rồi ngộ nhập Tự Tướng Tự Giác Địa nơi giới vô lậu, xa lìa tất cả giác tưởng hư vọng, hàng phục tất cả bọn ma ngoại đạo, do tự giác phát huy ánh sáng, ấy là tướng Tông thông. Thế nào là tướng Thuyết thong ? Nói thuyết đủ thứ giáo pháp nơi chín bộ Kinh, lìa các tướng đồng, dị, và có, không, dùng phương tiện tinh xảo, để tùy thuận chúng sanh, ứng cơ thuyết pháp khiến được độ thoát, ấy gọi là tướng Thuyết thông. Đại Huệ ! Ngươi và các Bồ Tát nên tu học.


Phật nói ‘Tông thông” là pháp Thiền thực tiễn do mình tự tham tự chứng; nói “Thuyết thông” là pháp sư giảng giáo lý, thuyết pháp tự tại, chẳng lìa tự tánh, chẳng đọa nhị biên. Một là trực tiếp, một là gián tiếp; do tâm hành, một do khẩu thuyết, đức Phật hoằng pháp lợi sanh, đại khái chẳng ra ngoài hai lối này. Hai thứ phương pháp dù chẳng đồng, nhưng mục đích cuối cùng chỉ là một, nếu xét kỹ lại thì tông chẳng lìa giáo, giáo chẳng lìa tông, xưa nay Tông môn dù nói chẳng lập văn tự, chẳng trọng Kinh điển, nhưng Thế Tôn sau khi niêm hoa thị chúng rồi liền nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng, Vi diệu pháp môn, Chẳng lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật”. Tám câu này tức là ngôn ngữ, tức là giáo lý, cho đến Tổ Đạt Ma lấy Kinh Lăng Già truyền cho Ngài Huệ Khả, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lấy Kinh Kim Cang truyền thọ Ngài Huệ Năng, Tứ Tổ có Pháp Ngữ, Lục Tổ có Pháp Bảo Đàn, ấy đều chứng tỏ Tông chẳng lìa giáo vậy.

Ảnh minh họa

Lại như trong giáo điển Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Viên Giác, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Lăng Già đều trực thị Tông chỉ thẳng lìa Pháp thân, ấy đều chứng tỏ Giáo chẳng lìa Tông vậy. Nên Chứng Đạo Ca nói: “Tông cũng thông, Thuyết cũng thông, Định, Huệ sáng tròn chẳng kẹt không", chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ ý chỉ này, vì tiên nhập làm chủ, nên ít người thông suốt, lại mỗi mỗi tự lập cửa ải, bài xích lẫn nhau, kẻ học Thiền thì chấp Tông mà đè giáo, kẻ học giáo môn thì chấp giáo mà khinh tông. Thật ra Tông lìa Giáo thì đọa nơi rỗng không, giáo lìa tông thì thành ra tạp loạn, Tông với Giáo như hai bánh của xe, chẳng thể phế bỏ bánh xe nào.

Hành giả Tông môn dụng công tham thiền, ngoài việc thân cận Thiện tri thức, hiểu rõ phương pháp dụng đứng đắn, vẫn cần biết rõ cảnh giới chẳng đồng của bốn thừa và sự khác nhau của phương pháp dụng công, mới chẳng lầm nhận cho Tiểu Thừa là Đại Thừa, lạc vào lối tẻ, chẳng thể đạt đến minh tâm kiến tánh.


Muốn rõ bốn thừa cũng nên xem kinh điển giáo lý; người học giáo lý đã rõ bốn thừa rồi, cần phải chơn tham thật chứng mới được minh tâm kiến tánh. Nếu chẳng minh tâm kiến tánh, dù kinh điển văn tự chứa đầy bụng, biện tài như suối chảy, ngòi bút viết ra muôn ngàn văn chương, với bản thể của Phật tánh đều chẳng dính dáng, thậm chí hiểu lầm ý Phật, tự ý phát huy để di lại cho kẻ hậu học.


3.- ĐẠI Ý CỦA BỐN THỪA


Chữ Phật còn thuộc giả danh, huống là bốn Thừa ư ! Nhưng đức Phật đại bi cứu thế, phương tiện độ sanh, vì tùy căn cơ sâu cạn của chúng sanh nên giả thiết đủ thứ ngôn giáo pháp môn dùng để tu tập, theo thời ứng cơ, tùy nghi lập giáo, như lương y trị bệnh, tùy bệnh cho Thu*c, nên có những thí dụ như xe dê, xe trâu (tam thừa) và Hóa Thành (nửa đường), Bửu Sở (quả Phật) v.v... Khổ tâm ấy thật là chiếu sáng muôn đời.


Tất cả pháp có thể nói ra đều thuộc về tương đối; pháp tương đối phải tùy theo không gian và thời gian mà biến đổi, vốn chẳng thật thể. Nên đức Phật thuyết Pháp vừa thuyết liền phá, ban sơ Phật đã từng vì chúng sanh thuyết diệu lý của Chơn như Pháp thân, ý chỉ huyền ảo vi diệu, chúng đều bỏ đi, rồi trở lại thuyết Pháp môn Tiểu Thừa, người nghe mới tin được. Đến khi đồ chúng tu Tiểu Thừa đã quen thuộc, ham thích Thiền vị, chỉ tự độ thân mình, Phật lại quở rằng: “Đây chẳng phải cứu cánh, chưa lìa hẳn sanh tử, nên tu Trung thừa”. Đồ chúng mới chuyển tu Trung thừa, đạt nơi ngã, pháp đều Không. Phật lại quở rằng: “Đây vẫn chưa cứu cánh, tập khí từ vô thỉ chưa sạch, cũng còn biến dịch sanh tử, nên tu Đại Thừa". Từ đó chúng mới chuyên tu pháp Đại Thừa, đến khi căn cơ thuần thục, Phật mới trực thị pháp Tối thượng thừa, kẻ tu hoát nhiên đại ngộ, thấu triệt bản tâm chẳng sanh chẳng diệt, chẳng biến chẳng khác, sẵn sàng viên mãn, chẳng do tạo tác, mới biết phi tâm, phi Phật, cuối cùng chẳng có pháp nào khác để đắc, nói “Pháp môn” chỉ là nói suông, nói “bốn thừa” đều là hí luận, khi ấy mới tin Phật nói “Chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ” là chẳng phải cố ý bày đặt sự huyền bí.


Nay lược thuật cảnh giới bốn thừa như sau:


TIỂU THỪA: Cũng gọi là Thanh Văn thừa, do nghe thanh giáo của Phật mà ngộ lý Tứ Đế, đoạn dứt Kiến hoặc, Tư hoặc, chứng nhập Niết Bàn Tiểu thừa, ấy là lối tu hạ căn trong đạo Phật. Kinh Thắng Man Bửu Quật rằng: “Hai chữ Thanh Văn là kẻ hạ căn theo giáo lập tên, THANH tức là Giáo vậy.


Pháp môn Tứ Đế của thừa Thanh Văn sở tu tức là KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. KHỔ là cái quả thọ báo, TẬP là cái nhân chiêu quả, DIỆT là đắc quả tịch diệt, ĐẠO là lối tu để đoạn trừ cái nhân chiêu quả. Nói một cách khác, tu theo TỨ ĐẾ tức là biết Khổ đoạn Tập, mộ Diệt tu Đạo, Đế là ý nghĩa xác thật. Cách tu của họ là đoạn dứt công dụng của lục căn, lắng tâm tĩnh lự, cho đến chỉ còn một chút niệm trong sạch, ấy là cảnh giới của Tiểu thừa đạt đến, quả cùng tột gọi là A La Hán.


Động cơ của người tu Tiểu thừa là nhàm chán sanh tử mà cầu thanh tịnh Tịch diệt, cho rằng trong linh tánh vốn chẳng phiền não, tất cả khổ đều do lục căn chiêu tập mới có, nên muốn được sự vui của thanh tịnh tịch diệt chỉ có tu đạo làm cho công dụng của lục căn dừng lại, chẳng sanh tác dụng chiêu tập, mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe, mũi chẳng ngửi, lưỡi chẳng nếm, thân chẳng xúc, ý chẳng tưởng, công dụng của lục căn đã dứt sạch, sáu cửa đã đóng kín, trong linh tánh chỉ còn một niệm thanh tịnh, tịch tịnh an lạc, ấy là đạo quả sở chứng của Tiểu thừa, nhưng lục căn dù tạm dứt, mà một niệm thanh tịnh chưa được buông bỏ, ắt chẳng phải cứu cánh.


TRUNG THỪA: Cũng gọi Duyên Giác thừa, do quán Nhân Duyên mà ngộ đạo. Xưa nay xưng Bích Chi Phật, dịch nghĩa là Độc Giác. Pháp môn của Trung thừa là Thập Nhị nhân duyên, tức VÔ MINH duyên HÀNH, HÀNH duyên THỨC, THỨC duyên DANH SẮC, DANH SẮC duyên LỤC NHẬP, LỤC NHẬP duyên XÚC, XÚC duyên THỌ, THỌ duyên ÁI, ÁI duyên THỦ, THỦ duyên HỮU, HỮU duyên SANH, SANH duyên LÃO TỬ. Thập nhị chi (mười hai nhánh) này bao gồm quá khứ, hiện tại, vị lai, tam thế nhân quả tuần hoàn chẳng dừng. Ở đây VÔ MINH là nhất niệm vô minh, cũng gọi là tánh nhất niệm vọng động, chẳng phải vô thỉ vô minh, vì bất giác khởi niệm, bèn sanh ra đủ thứ phiền não, tạo đủ thứ thiện ác nghiệp, gọi là HÀNH, hai chi này là nhân đời trước.

THỨC là nghiệp thức, như thân trung ấm bị nghiệp lôi kéo mà đến đầu thai; DANH SẮC là lúc ở trong thai sắc thân chưa thành, tứ ấm THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC chỉ có tên gọi, chưa có thật chất; LỤC NHẬP là nói ở trong thai lục căn đã hoàn thành, là chỗ sở nhập của lục trần, XÚC là sau khi sanh ra, lục căn tiếp xúc lục trần, THỌ là lãnh thọ các cảnh giới thuận nghịch, năm chi này là quả đang thọ ở đời này. Ái là đối với cảnh trần có sở ái, THỦ là chấp thủ việc mình ham muốn, HỮU là có quyền sở hữu, cho mình được tùy ý chi phối, ba chi này là nhân sở đắc của đời này, đời này tạo nghiệp nhân thì đời sau báo ứng nghiệp quả. SANH là tùy theo sự gieo nghiệp nhân thành chủng tử để thọ sanh nơi kiếp sau. LÃO TỬ là kiếp sau đã có sanh, ắt phải có lão tử, hai chi này là quả báo phải thọ ở đời sau. Ấy là đại khái của Thập nhị nhân duyên.


Kẻ tu pháp Trung thừa quán xét chúng sanh trong tam thế đều bị Thập nhị nhân duyên chi phối, mà Thập nhị nhân duyên thì nương nhất niệm vô minh sanh khởi, cho rằng Tiểu thừa chưa thể phá nhất niệm này, nên chưa đạt cứu cánh, nếu được đoạn dứt nhất niệm này, thì được vượt ra ngoài tam thế, liễu thoát sanh tử.


Nên cách dụng công của họ là muốn quét sạch nhất niệm vô minh, đạt đến cảnh giới mênh mông trống rỗng chẳng có gì cả, tự cho đã chứng Niết Bàn, chẳng biết đã lọt vào vô thỉ vô minh. Cái cảnh giới trống rỗng chẳng có chi cả, cũng gọi là “Không chấp”, linh tánh ám muội, chẳng khác gì gỗ đá ! Huống chi nhất niệm dù tạm dừng, nếu bị kích thích vẫn có thể nổi lại, nên sở chứng của Trung thừa cũng chưa cứu cánh.


ĐẠI THỪA: Cũng gọi là Bồ Tát thừa, pháp sở tu là sáu Ba La Mật, cũng gọi là Lục độ. Sáu Ba La Mật là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền na, Bát nhã. Người tu Đại thừa gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, Bồ Đề dịch là Giác, Tát Đỏa dịch là Hữu tình.

Ý là giác ngộ chúng sanh hữu tình, gọi tắt là Bồ Tát, tức là chúng sanh phát đại tâm Bồ Đề, lấy tâm Bồ Đề làm thể để tự độ; lấy tâm Đại bi làm dụng để độ thành, tự tha kiêm lợi, nên xưng Đại thừa.

Phẩm THÍ DỤ trong kinh Pháp Hoa rằng: “Nếu có chúng sanh nơi Phật Thế Tôn nghe pháp tín thọ, tinh tấn tu hành, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, Vô sở uý, dùng sức tri kiến của Như Lai thương xót vô lượng chúng sanh, độ thoát tất cả trời, người đều được lợi ích an lạc, ấy gọi là Đại Thừa.”.


Lục độ bao gồm tam học Giới, Định, Huệ, mà lấy pháp Thiền na làm chủ yếu để dụng công, người tu Đại thừa biết nhất niệm vô minh chẳng thể phá, nên lợi dụng nhất niệm vô minh để phá tan vô thỉ vô minh mà được kiến tánh, ấy là phương pháp dùng tướng cướp (nhất niệm vô minh) để bắt vua cướp (vô thỉ vô minh) vậy.


TỐI THƯỢNG THỪA: Cũng gọi là Phật thừa, khi đã minh tâm kiến tánh, hiển hiện Phật tánh chơn như, phát huy diệu lý tuyệt đối, chỉ có kẻ chứng với kẻ chứng mới biết nhau được. Nên THẾ TÔN niêm hoa, CA DIẾP mỉm cười; CA DIẾP giơ tay; A NAN hiệp chưởng, dùng Tâm ấn Tâm, khế hợp ăn khớp, trình bày trước mắt, chẳng nhờ ngôn thuyết, là pháp tối cao cùng tột, chẳng còn gì hơn nữa, ấy là Tối thượng thừa Thiền.


Tiểu thừa đoạn lục căn, Trung thừa đoạn nhất niệm vô minh, Đại thừa đoạn vô thỉ vô minh, tối thượng thừa trực chỉ chơn như Phật tánh, đây là đại ý của bốn thừa. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Pháp chẳng bốn thừa, do tâm người tự có sai biệt mà hình thành, thấy, nghe, đọc, tụng là Tiểu thừa, hiểu nghĩa ngộ pháp là Trung thừa, y pháp tu hành là Đại thừa, vạn pháp đều thông, vạn pháp sẵn sàng, tất cả chẳng nhiễm, lìa chư pháp tướng, trọn vô sở đắc, gọi là Tối thượng thừa”. Thế thì đại ý của bốn thừa đã rõ ràng.


Triệu Châu Hòa Thượng nói: “Ta chẳng thích nghe một chữ PHẬT”, còn nói: “Hễ lão Tăng niệm PHẬT một tiếng thì phải súc miệng ba ngày”. Nếu thấu rõ lời này thì chẳng bị bốn thừa trói buộc.

  • Yếu chỉ thiền tông (Phần 1)

Thiền sư Nguyệt Khê

Thiền sư Thích Duy lực dịch.


Thích Duy Lực

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/yeu-chi-thien-tong-2-d12753.html)
Từ khóa: Thiền tông

Chủ đề liên quan:

Thiền tông

Tin cùng nội dung

  • Chữ Thiền là gì? Theo nghĩa thông thường phàm luyện tập cho tâm trí được thanh tịnh đều gọi là Thiền, nhưng Thiền tông lại khác hẳn với tất cả Thiền khác, duy nhất thực hành theo pháp Thiền trực tiếp do Phật Thích Ca đích thân truyền dạy, chuyên chú trọng thực hành không cần lý luận…
  • Tổ Long Thọ người đời gọi Ngài là Bồ Tát. Sanh sau Đức Phật nhập Niết bàn 517 năm, ở miền Tây nước Ấn. Thuở nhỏ Ngài thích nghe kinh Phật. Ngài có biệt tài, khi nghe ông Phạm Chí tụng hết 4 bộ kinh Phệ Đà, Ngài thuộc lòng.
  • Tổ Phú Na Dạ Xa, cũng gọi Phú Na Dạ Xá, Phú Na Xa, Phú Na, Dạ Xa, sinh sau Đức Phật nhập Niết bàn 398 năm, ở nước Hoa Thị, dòng Cù Đàm, con của ông Phú Bảo Thân, mẹ là bà Thuận Kiều Trang. Ngài là con út trong gia đình có 8 anh chị.
  • Bồ Tát Mã Minh sinh vào cuối thế kỷ thứ V sau Phật Niết bàn, người nước Ba-La-Nại, hiệu Mã Minh cũng có hiệu Công Thắng. Cha là Mã Thắng Quyền, mẹ là Hữu Phúc Vân. Lúc nhỏ ngài rất thông minh nên được cha mẹ cho học luật sư, lời biện luận của ngài không ai sánh được.
  • Trong các thư tịch cổ, Hiệp Tôn Giả (còn gọi là Hiếp Tôn Giả) - Vị tổ Thiền tông đời thứ 10 có thân phận vô cùng đặc biệt.
  • Tổ Phật Đà Nan Đề sinh sau đức phật nhập Niết bàn 287 năm, cha là Phật Cù Thiên, mẹ là Chí Phương Thu, nước Ca Ma La. Thuở nhỏ trên trán Ngài có cục thịt nổi cao giống như của đức Phật, thường phát ra hào quang năm sắc xen lẫn.
  • Tổ sư thường được hiểu là những Đại sư đã thấu hiểu Phật pháp, đã được truyền tâm ấn qua cách “Dĩ tâm truyền tâm” và truyền lại cho những Pháp tự. Biểu tượng của việc “Truyền tâm ấn” là pháp y và bát, gọi ngắn là “y bát”.
  • Theo ghi chép 28 vị Tổ sư Ấn Độ kế thừa nhau sau Phật Thích Ca để truyền bá Thiền tông và Bồ Đề Đạt Ma, vị Tổ thứ 28 được xem là Tổ thứ nhất của Thiền Trung Quốc sau nối tiếp truyền cho 5 người...
  • Kinh Kim Cang là bộ kinh cô đọng tư tưởng Bát nhã tánh không của “Đại Bát nhã kinh 600 quyển”. Tên kinh lấy “Kim Cang” kiên cố bất hoại, minh tịnh sắc bén để ví dụ trí huệ Bát nhã của Bồ tát, có thể phá hủy tất cả hư vọng hý luận, mà không bị vọng chấp làm hư hoại.
  • Nhân mùa Phật đản, xin nguyện tất cả chúng sinh, dù là Phật tử hay chưa là Phật tử, đều được “Miệng và ý không ác. Thân cũng không làm ác”, lấy đó làm pháp cúng dường cúng dường mười phương chư Phật cùng tất cả chúng sinh trong mười phương pháp giới.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY