Cùng với việc tuổi thọ ngày càng tăng cao, số người già ngày càng nhiều thì trên thế giới, cũng như ở Việt Nam, bệnh loãng xương đang nổi lên là một vấn đề xã hội, và ngày càng được quan tâm.
Loãng xương là bệnh rất thường gặp, có tỷ lệ mắc bệnh cao, chi phí rất tốn kém trong việc phòng, điều trị, đặc biệt là các chi phí liên quan đến chăm sóc, điều trị các biến chứng gẫy xương do loãng xương.
1. Loãng xương là gì?
Loãng xương được định nghĩa, là tình trạng bệnh lý của hệ thống xương, đặc trưng bởi sự giảm khối lượng xương, kèm tổn hại đến vi cấu trúc của tổ chức xương, làm giảm độ chắc của xương, gây nguy cơ gẫy xương. Như vậy, khi một người bị loãng xương, thì cả “chất” và “lượng” của hệ thống xương đều bị suy giảm.
Loãng xương được phân thành hai loại (type): loãng xương nguyên phát là loãng xương, mà không tìm thấy căn nguyên nào khác ngoài tuổi tác, (phân thành loãng xương nguyên phát typ II), và hoặc sau tình trạng mãn kinh ở phụ nữ, (loãng xương typ I). Loãng xương nguyên phát, có thể do sự lão hoá của tạo cốt bào, là tế bào tạo xương, từ đó gây nên thiểu sản xương. Loãng xương thứ phát là loãng xương, tìm thấy nguyên nhân do các bệnh lý, như cường cận giáp, cường tuyến giáp, hội chứng Cushing, viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, các dị dạng cột sống, các ung thư xương, đau tuỷ xương, các bệnh lý dạ dày ruột gây rối loạn hấp thu, vân vân, hoặc do sử dụng một số Thu*c như corticoid, heparin, phenyltoin, vân vân, kéo dài, giảm nội tiết tố Sinh d*c do cắt buồng trứng, hoặc do dùng Thu*c ức chế, vân vân.
Một số bệnh lý bẩm sinh, cũng gây nên tình trạng loãng xương, như bệnh xương thủy tinh, (Brittle bone disease). Ngoài ra, phải kể đến những yếu tố nguy cơ loãng xương, như tuổi cao, giới nữ, chủng tộc, di truyền, tiền sử gia đình có bố mẹ bị gẫy xương do loãng xương, thể chất thấp bé nhẹ cân, lối sống tĩnh tại, hút Thu*c lá nhiều, uống rượu nhiều, dinh dưỡng kém, ăn thiếu chất calci, vitamin D, C, vân vân.
Hiện nay, dựa vào một số yếu tố nguy cơ của loãng xương, các nhà khoa học đã lập nên thang điểm FRAX, (Fracture Risk Assessment Tool), để đánh giá nguy cơ gẫy cổ xương đùi, do loãng xương trong 10 năm, và nguy cơ gẫy xương một số xương chính, (của cột sống, xương cẳng tay, cổ xương đùi và xương bả vai), trong 10 năm. Để xác định nguy cơ gẫy các xương nói trên trong vòng 10 năm, người ta chỉ cần điền một số thông số, đánh giá yếu tố nguy cơ của bản thân, vào bảng tính FRAX, (có thể tìm trên mạng internet). Đây cũng là một căn cứ quan trọng, cùng với chỉ số T-score, nhằm quyết định, có điều trị
bệnh loãng xương hay không.
2. Triệu chứng và chẩn đoán.
Việc dự phòng loãng xương, cần được đặt ra ở tất cả các lứa tuổi, bao gồm tăng cường dinh dưỡng, đảm bảo đủ chất calci, vitamin D và các yếu tố vi lượng. Rèn luyện thể lực thường xuyên, đều đặn, sẽ giúp xương chắc khoẻ, làm tăng mật độ xương và làm giảm sự mất xương.
|
bệnh loãng xương thường biểu hiện kín đáo, tiến triển thầm lặng, không có triệu chứng. Một số trường hợp sau khi có biểu hiện gẫy xương tự nhiên, hoặc sau chấn thương nhẹ mới phát hiện ra. Gẫy xương ở xương ngoại vi thường gặp ở tay, chân, nhất là gẫy đầu dưới xương quay ở cổ tay, hoặc gẫy cổ xương đùi. Ở cột sống, gẫy xương biểu hiện bởi lún xẹp đốt sống, có thể dẫn đến đau cột sống cấp tính, khởi phát đột ngột, kèm hay không kèm triệu chứng chèn ép thần kinh liên sườn, hay thần kinh tọa.
Đau cột sống do loãng xương, thường có tính chất cơ học rõ: giảm rõ khi nằm, và giảm dần rồi biến mất trong vài tuần. Đau xuất hiện khi có một đốt sống mới bị xẹp, hoặc đốt sống ban đầu bị xẹp nặng thêm. Trường hợp đau cột sống mạn tính, bệnh nhân đau âm ỉ liên tục, có những lúc đau trội giống đợt cấp. Khám có thể phát hiện giảm chiều cao, gù cột sống, co cơ cạnh cột sống, hạn chế động tác cúi ngửa, ấn đau chói tại chỗ xẹp.
Các thăm dò cận lâm sàng cần làm, bao gồm chụp Xquang, có thể thấy mất chất khoáng ở xương, biểu hiện bởi hình ảnh tăng thấu quang, kèm hoặc không kèm gẫy xương. Trên phim Xquang chụp cột sống còn thấy, các biến dạng lún xẹp đốt sống, đốt sống hình thấu kính, hình chêm gây gù cột sống, vân vân. Tuy nhiên, khi có biểu hiện loãng xương trên phim chụp Xquang, thì thường là biểu hiện muộn, khối lượng xương đã giảm ít nhất 30%. Biện pháp chính xác nhất và sớm để chẩn đoán loãng xương, theo Tổ chức Y tế Thế giới, là đo bằng máy hấp phụ tia X năng lượng kép, (Dual Energy Xray-Absorptionmetry- DEXA), đây chính là tiêu chuẩn vàng, để chẩn đoán loãng xương.
Các phương pháp chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ, ít được áp dụng trong chẩn đoán loãng xương do đắt tiền. Siêu âm đo mật độ xương, chỉ khuyến cáo khi làm sàng lọc trên cộng đồng, sau đó, muốn kết luận loãng xương, phải đo bằng phương pháp DEXA. Hiện nay, có nhiều nơi dùng phương pháp siêu âm, đo ở cổ chân, cổ tay, sau đó kết luận loãng xương ngay, là chưa thực sự chuẩn xác. Các xét nghiệm máu, như hội chứng viêm, xét nghiệm calci, phospho, vân vân, thường bình thường, trừ trường hợp loãng xương thứ phát có thể thay đổi.
3. Ðiều trị.
Chỉ định điều trị
bệnh loãng xương nguyên phát, ở những trường hợp có tiền sử, hay hiện tại bị gẫy xương do loãng xương, (gẫy xương sau chấn thương nhẹ), được chẩn đoán loãng xương bằng phương pháp đo mật độ xương, hoặc trường hợp đo mật độ xương thấp, nhưng có yếu tố nguy cơ loãng xương kèm theo, và thang điểm FRAX có chỉ số nguy cơ gẫy cổ xương đùi, do loãng xương trong 10 năm tới trên 3%, hoặc nguy cơ gẫy một số xương chính trên 20%. Hiện nay, điều trị
bệnh loãng xương nguyên phát, đã đạt được nhiều tiến bộ, đặc biệt ngày càng có nhiều Thu*c điều trị, có hiệu quả tốt.
Việc bổ xung calci từ 1 đến 1,5g, phối hợp vitamin D3 800UI hoặc calcitriol, là dạng hoạt tính sinh học của vitamin D3, với liều 0,25 đến 0,5 µg một ngày là rất cần thiết, cần được coi là Thu*c phối hợp đầu tay, trong điều trị
bệnh loãng xương. Các Thu*c nhóm bisphosphonat, như risedronat, alendronat, vân vân, dùng hàng ngày hoặc tuần một lần, có tác dụng tốt. Các chế phẩm mới thuộc nhóm này, như pamidronat, zoledronat, có thể dùng 6 tháng đến 12 tháng một lần, có ích lợi trong tạo tuân thủ điều trị cho bệnh nhân, thường được chỉ định trong loãng xương nặng, hoặc loãng xương thứ phát sau ung thư di căn xương, đa u tủy xương.
Nhóm calcitonin là hormon, do tế bào nang cạnh tuyến giáp tiết ra, dùng đường tiêm bắp, xịt mũi, hoặc pha truyền tĩnh mạch, (trong những chỉ định đặc biệt), ngoài tác dụng ức chế hủy xương, còn có tác dụng giảm đau do loãng xương tốt. Các Thu*c nội tiết tố Sinh d*c nữ, như estroprogestatif, tibolon, không những có tác dụng dự phòng, điều trị loãng xương, còn có tác dụng tốt, trong điều trị các rối loạn tiền mãn kinh ở nữ giới.
Tuy nhiên, cần lưu ý chỉ định dùng Thu*c rất chặt chẽ, không dùng ở những bệnh nhân ung thư vú, tử cung, buồng trứng, tiền sử có thuyên tắc mạch ngoại vi, vân vân. Các Thu*c khác như, điều biến thụ thể estrogen chọn lọc, (selective estrogen receptor modulator- SERM), với chế phẩm raloxifen, vitamin K2, strondium, vân vân, đã và đang được sử dụng trong điều trị
bệnh loãng xương, và cho những hiệu quả nhất định. Các trường hợp loãng xương nguyên phát, cần chú ý việc điều trị nguyên nhân gây bệnh, và không được bổ xung calci khi có calci máu tăng cao.
4. Phòng bệnh.
Dự phòng loãng xương rất quan trọng, vì chi phí thấp hơn rất nhiều so với điều trị
bệnh loãng xương, cũng như các biến chứng của bệnh. Việc dự phòng loãng xương, cần được đặt ra ở tất cả các lứa tuổi, bao gồm tăng cường dinh dưỡng, đảm bảo đủ chất calci, vitamin D và các yếu tố vi lượng. Rèn luyện thể lực thường xuyên đều đặn, sẽ giúp xương chắc khoẻ, làm tăng mật độ xương và làm giảm sự mất xương. Cần bỏ các thói quen xấu, có thể làm tăng nguy cơ gẫy xương, như hút Thu*c lá, uống rượu, (nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ, sử dụng các chất này nhiều, làm tăng nguy cơ gẫy cổ xương đùi).
Với người già, cần chú ý tới phòng nguy cơ ngã do mắt kém, hệ xương khớp không còn hoạt động tốt như người trẻ. Dự phòng loãng xương cần được chú ý đặc biệt, ở những bệnh nhân bị bệnh khớp mạn tính, bệnh bộ máy vận động gây cản trở các hoạt động, sinh hoạt bình thường, hoặc các bệnh có sử dụng các Thu*c glucocorticoid kéo dài, như viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, hen phế quản, vân vân. Ở phụ nữ mãn kinh, do có nguy cơ mất xương cao, ngoài bổ xung calci, vitamin D, thì cần lưu ý đến liệu pháp thay thế hormon dự phòng, bằng các hormon Sinh d*c nữ tổng hợp, như estroprogestatif, tibolon, nếu không có chống chỉ định.
Thạc sĩ: Bùi Hải Bình.