Chấn thương chỉnh hình hàm mặt hôm nay

Đây là chuyên khoa đảm nhận các ca phẫu thuật, tạo hình vùng răng hàm mặt thông thường; cùng với việc điều trị gãy xương vùng hàm mặt, phẫu thuật chỉnh hình sửa chữa các biến dạng, chấn thương vùng hàm mặt do tai nạn giao thông, tai nạn sinh hoạt và lao động thường nhật. Chuyên khoa này còn bao gồm tạo hình khớp thái dương hàm trong các trường hợp dính khớp, đồng thời nghiên cứu, kết hợp các kỹ thuật vi phẫu thuật và cấy ghép mới. Những tình trạng bệnh thường gặp của khoa Chấn thương chỉnh hình hàm mặt như: gãy xương vùng hàm mặt, dính khớp, lệch lạc xương mặt hàm; u lành tính/ác tính vùng hàm mặt, nang và u xương hàm, dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt; răng ngầm, hở môi - vòm miệng,...

Biểu hiện vùng miệng của nhiễm HIV, AIDS: dấu hiệu triệu chứng, nguyên nhân, chẩn đoán điều trị răng hàm mặt

Bệnh nha chu liên quan đến nhiễm HIV thường có những biểu hiện trầm trọng hơn bệnh nha chu thông thường, đáp ứng kém hơn với điều trị cổ điển

Phân loại

Năm 1996 – Cộng đồng kinh tế châu Âu công bố bảng phân loại của các biểu hiện vùng miệng của bệnh nhiễm HIV

Nhiễm nấm

Nhiễm Candida (dạng màng giả, dạng ban đỏ, dạng tân sinh, chóc mép).

Nhiễm Histoplasma.

Nhiễm Crytococcus.

Nhiễm Geotrichosis.

Nhiễm khuẩn

Viêm nướu hoại tử – HIV.

Viêm nướu – HIV.

Viêm nha chu – HIV.

Do Mycobacterium avium intracellulare, Klebsiella pneumoniae, Enterobacterium cloacae, E. Coli

Actinomycosis.

Bệnh mèo quào.

Viêm xoang.

Cơn kịch phát của nhiễm chóp răng.

Viêm mô tế bào dưới hàm.

Nhiễm vi rút

Herpes Simplex Virus.

Cytomegalo virus.

Epstein Bar virus: Bạch sản tóc.

Varicella – Zona virus: Herpes Zoster; Varicella.

Human papilloma virus: Verruca vulgaris; Condyloma accuminata; Focal epithelial hyperplasia.

Tân sinh

Kaposi sarcoma.

Carcinoma tế bào vẩy.

Lymphoma không Hodgkin.

Rối loạn thần kinh

Bệnh dây thần kinh tam thoa.

Liệt mặt.

Không rõ nguyên nhân

Loét aphte tái phát.

Thiếu tiểu cấu nguyên phát.

Khô miệng.

Loét hoại tử tuần tự.

Tiêu biểu mô do ngộ độc.

Chậm lành thương.

Phì đại tuyến nước bọt.

Tăng nhiễm sắc Melanin.

Nhiễm nấm cơ hội

Nhiễm Candida

Ngay từ những báo cáo đầu tiên năm 1981 về hội chứng AIDS đã có đề cập đến nhiễm Candida vùng miệng. Tuy nhiên, vào lúc đó hầu như mọi trường hợp đều ở dạng màng giả. Sau này các dạng khác như : màng giả, ban đỏ, tăng sinh và chóc mép đều được mô tả với những tỉ lệ khác nhau ở người huyết thanh dương tính, bị ARC và bị AIDS.

Nhiễm candida dạng màng giả

Có sự hiện diện của những mảng trắng hay vàng trên một niêm mạc đỏ hay bình thường. Khi cạo, mảng trắng tróc ra để lại một bề mặt ướm máu. Vị trí thường gặp ở khẩu cái, niêm mạc má, môi và lưng lưỡi.

Nhiễm candida dạng tăng sinh

Đặc trưng là những mảng trắng không thể cạo đi được. Vị trí thường là niêm mạc má, ngược với khóe mép là vị trí thường gặp ở những người không bị nhiễm HIV

Nhiễm candida dạng ban đỏ hay dạng teo

Biểu hiện dưới dạng tổn thương màu đỏ sậm nổi bật hay rất kín đáo. Vị trí thường gặp ở khẩu cái, lưng lưỡi (làm mất gai lưỡi) tương tự như lai nhiễm nhiều ổ ở những bệnh nhân hút Thu*c nhiều, dạng nhiễm này tuy rất đặc trưng của nhiễm HIV nhưng thường bị bỏ qua vì ít gây triệu chứng lâm sàng làm cho bệnh nhân khó chịu.

Nhiễm candida dạng chóc mép

Xảy ra khi bệnh nhân ở vào tuổi trung niên không có các yếu tố bệnh căn thông thường như thiếu máu, thiếu vitamin, mất kích thước dọc thì phải gợi ý đến tình trạng nhiễm HIV.

Tỉ lệ những người nhiễm HIV có kèm nhiễm nấm candida thay đổi rất nhiều tùy theo tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm nấm và mẫu điều tra (vào khoảng 66%). Nhiễm nấm candida được nghiên cứu như một dấu hiệu báo trước sự chuyển sang giai đoạn AIDS, đặc biệt là nhiễm candida dưới dạng màng giả.

Klein so sánh 22 bệnh nhân bị hạch toàn thân, tỉ lệ T4/T8 đảo ngược, đồng thời bị nhiễm candida dạng màng giả, với 20 bệnh nhân ở tình trạng tương tự nhưng không bị nhiễm candida. Theo dõi trong 3 tháng thấy nhóm thứ nhất 59% chuyển sang giai đoạn AIDS với những nhiễm trùng cơ hội nặng, hoặc sarcom Kaposi trong khi nhóm thứ nhì không có người nào chuyển sang AIDS.

Như vậy có thể kết luận là một sự suy giảm số tế bào Lympho T4 cùng với sự nhiễm nấm candida là một dấu hiệu tiên lượng xấu, báo trước cho sự xuất hiện AIDS ở bệnh nhân nhiễm HIV.

Nhiễm Histoplasma

Histoplasma capsulatum là một nấm sống trong đất, không gây bệnh ở người bình thường mặc dù có gây phản ứng miễn dịch. Ơ bệnh suy giảm miễn dịch, nấm gây bệnh lan tỏa hoặc khu trú, với triệu chứng sốt kéo dài, sụt cân và triệu chứng ở phổi, đồng thời có thể gây tổn thương ở da và miệng.

Nhiễm Crytococcus, Geotricum candidum

Là những nhiễm nấm cơ hội ở bệnh nhân nhiễm HIV giai đoạn AIDS, nhưng tương đối hiếm gặp.

Nhiễm khuẩn cơ hội

Bệnh nha chu

Bệnh nha chu liên quan đến nhiễm HIV thường có những biểu hiện trầm trọng hơn bệnh nha chu thông thường, đáp ứng kém hơn với điều trị cổ điển, tiến triển nhanh hơn, gây mất xương và lộ chân răng nhiều hơn.

Viêm nướu

Dấu hiệu thường là một đường viền đỏ ở nướu với những điểm viêm đỏ ở niêm mạc xương ổ, và nướu dễ chảy máu dù vệ sinh răng miệng tốt và ít có tích tụ mảng bám. Các điểm viêm đỏ có thể do sự bội nhiễm Candida. Đôi khi thấy gai nướu sưng phồng ở vài điểm.

Nha chu viêm

Mô nha chu bị tiêu hủy nhanh chóng, đau nhức nhiều, răng lung lay. Trái với bệnh nha chu thông thường, có sự tiêu mất các mô nâng đỡ nhưng túi không sâu. Có thể kèm viêm nướu lở loét hoại tử.

Viêm nướu lở loét hoại tử: ANUG

Thường chỉ thấy ở trẻ suy dinh dưỡng, hay bị các bệnh làm suy giảm hệ thống miễn dịch. Ơ người trướng thành bị nhiễm HIV cũng dễ thấy ANUG.

Các vi khuẩn gây bệnh, ngoài một số vi khuẩn thường gặp trong các bệnh nha chu, còn có một số vi khuẩn kỵ khí có độc tính rất cao như : Eikenella, Wollinella, Bacteroides, do tình trạng nhiễm HIV tạo những điều kiện thuận lợi tạp khuẩn trong khe nướu chuyển đổi sang các giống vi khuẩn có tính gây bệnh mạnh hơn. Thường các bệnh nhân bị nha chu viêm có hệ số T4/T8 thấp hơn các bệnh nhân bị viêm nướu, đồng thời có sự khiếm khuyết của chức năng bạch cầu đa nhân.

Điều trị : các dạng bệnh nha chu ở người nhiễm HIV phải được điều trị bằng biện pháp vệ sinh răng miệng kỹ lưỡng, có thêm biện pháp rữa các tổn thương với Betadine 10% và súc miệng hàng ngày với 0,1 – 0,2 chlorhexidine gluconate cho đến khi khỏi bệnh. Bệnh nhân bị đau và có tổn thương cấp tính phải được điều trị kháng sinh chống vi khuẩn yếm khí gram âm.

Nhiễm khuẩn Lao : nhiễm khuẩn Lao (Mycobacterium tuberculosis) tăng một cách đáng kể ở người nhiễm HIV. Tổn thương do Lao trong miệng có thể xuất hiện như một vết loét ở lưỡi.

Nhiễm Mycobacterium avium cellulare (MAI)

Gây nhiễm trùng phổi, trong miệng có thể tạo vết loét có phản ứng viêm hạt và hoại tử xương.

Nhiễm Klebsiella pneumoniae và Enterobacterium cloacae

Có thể gây viêm loét ở lưỡi, khẩu cái.

Nhiễm vi rút cơ hội

Herpes Simplex

Ơ bệnh nhân nhiễm HIV, viêm miệng Herpes xảy ra với tỉ lệ 5-13%, gây tổn thương trầm trọng và lan tỏa hơn là ở người không nhiễm HIV, bệnh dai dẳng, khó điều trị dứt điểm và dễ tái phát. Điều trị : Acyclovir.

Varicella Zoster virus

Nhiễm VZV có thể xem như một triệu chứng sớm của nhiễm HIV, một bệnh nhân HIV bị nhiễm virus VZ có 23% bị AIDS sau 2 năm và 46% bị AIDS sau 4 năm. Điều trị : Acyclovir.

Human papilloma Virus (HPV)

Nhiễm HIV có vẻ làm cho dễ nhiễm HPV vùng miệng với những type HPV ít gặp như type 13, 18, 32 và gây tổn thương phần mềm như papilloma, verruca, condyloma, focal epithelial hyperplasia, carcinoma.

Bạch sản tóc (Hairy Leucoplakia)

HL được mô tả đầu tiên vào cuối năm 1981 ở San Francisco, sau đó được ghi nhận khá phổ biến ở bệnh nhân nhiễm HIV ở nhiều nước.

Đó là một tổn thương thường gặp ở bệnh nhân đang ở giai đoạn muộn của nhiễm HIV và AIDS dưới dạng một mảng màu trắng, thường thấy ở hông lưỡi, ở cả hai bên. Bề mặt có nếp xếp giống như tóc, có khi có bề mặt phẳng, nhẵn láng. Vị trí thường gặp ở hông lưỡi, bụng lưỡi và ít gặp ở niêm mạc má, môi, sàn miệng, khẩu cái mềm,yết hầu. Có khi tổn thương gây đau rát do bội nhiễm candida.

Hình ảnh mô học cho thấy sự tăng sinh lớp gai và lớp sừng, làm cho lớp biểu mô dày lên và có khi dong ra tạo những nếp xếp hình sợi tóc. Trong lớp biểu mô thấy có những tế bào phình to hơi giống các koilocyte của nhiễm HPV.

Tuy nhiên các nghiên cứu labo không cho phép phát hiện HPV mà lại là Epstein – Bar virus (EBV) trong các tổn thương này. Hiện nay có 2 giả thuyết để thử giải thích tại sao EBV bội nhiễm trên HIV, hoặc là do nhiễm HIV làm mất tế bào Lanerhans khiến cho EBV có sẵn tại chỗ được hoạt hóa hoặc thụ thể EBV trên tế bào hong lưỡi bị lộ tối đa khi nhiễm HIV, cho nên dễ gắn virus EBV.

Bạch sản tóc là một tổn thương được xem là đặc trưng nhất của nhiễm HIV vùng miệng và cho phép tiên đoán sự tiến gần đến giai đoạn AISD tuy nhiên cần phải chẩn đoán sai biệt với một số tổn thương trắng khác. Điều trị : AZT.

Tân sinh

Có 3 loại tân sinh có ghi nhận liên quan đến nhiễm HIV. Những tân sinh này, hoặc là do tác nhân sinh ung, virus sinh ung làm cho ung thư xảy ra ở người suy giảm miễn dịch, hoặc là do một cơ chế gây bệnh nào khác của HIV.

Sarcom Kaposi

Năm 1872, Moritz Kaposi mô tả một loại bướu gọi là “Multiple idiopathic hemorrhagic sarcoma” và xem đó là một bướu ác tính của các tế bào thành mao mạch, xuất hiện ở người Phi Châu với một tỉ lệ thấp. Khi dịch bệnh HIV xuất hiện ở San Fransisco, Sarcom Kaposi gây sự chú ý vì xuất hiện nhiều ở nhóm đồng tính luyến ái, và tác nhân gây bệnh được nghi ngờ là virus CMV. Tuy nhiên, các cố gắng để phân lập virus CMV đều thất bại. Hiện nay không thể loại trừ khả năng Sarcom Kaposi không phải là một loại tân sinh thật sự mà là kết quả của sự tăng sinh mạch máu do HIV kích thích một yếu tố tăng sinh mạch máu (angioproliferative factor)

Ơ bệnh nhân AIDS, sarcom Kaposi thường có những tổn thương nhiều ổ, khởi đầu là một ban, sần hay hòn đỏ xuất hiện ở da hay niêm mạc. Ngoài ra vị trí hay gặp là ở thân người, chân, tay. Ơ mặt vị trí đặc trưng là đầu mũi. Tổn thương ở da lan rộng và sậm màu dần, và các tổn thương lân cận thì dính lại với nhau. Ngoài ra Sarcom Kaposi có thể ảnh hưởng đến các phủ tạng. Trong miệng, Sarcom Kaposi được để ý đầu tiên vào năm 1982 ở nhóm đồng tính luyến ái ở San Fransisco và sau đó, năm 1988, một nghiên cứu theo dõi trên 134 bệnh nhân cho thấy tổn thương này thường xuất hiện vào tuổi trung bình là 34 tuổi, 45% có đồng thời với tổn thương da và 22% xuất hiện trước.

Sarcom Kaposi trong miệng có thể xem là dấu hiện đầu tiên của giai đoạn AIDS. Vị trí thường gặp trong miệng là khẩu cái, đặc biệt là ở một bên khẩu cái, kế đến là nướu và lưỡi. Ơ nướu tổn thương rất khó phân biệt với Epulis. Tổn thương bắt đầu như một mảng đỏ hơi xanh hay đen kế đến sẽ to dần, sậm màu và nổi gồ lên, có bề mặt lở loét hay nhiều múi. Tổn thương thường hơi rắn trước khi loét bề mặt.

Hình ảnh vi thể của Sarcom Kaposi rất đặc trưng, cho thấy sự tăng sinh những dải tế bào nội mô hình thoi hay hơi phình, đan vào nhau và rất nhiều mạch máu.Khi Sarcom Kaposi xuất hiện đồng thời với một nhiễm trùng cơ hội, thời gian sống sót trung bình của bệnh nhân từ 6 đến 9 tháng.

Lympho không Hodgkin: NHL

NHL xuất hiện ở bệnh nhân nhiễm HIV với tỉ lệ cao hơn ở người bình thường. NHLthường liên quan đến tế bào Lympho B và có thể chứa virus EBV, DNA.

NHL rất hiếm gặp trong miệng so với các vị trí khác trong miệng như hạch lympho, tủy xương, gan và màng não. Trong miệng vị trí được ghi nhận là : vòng Waldeyer, nướu và tuyến mang tai, làm mô mềm tăng sinh và hủy hoại xương bên dưới.

Carcinom tế bào vảy

Ở bệnh nhân HIV, có báo cáo cho thấy carcinom tế bào gai xuất hiện trong miệng, ở lưỡi, ở bệnh nhân đồng tính luyến ái.

Nguồn: Internet.
Mạng Y Tế
Nguồn: Điều trị (https://www.dieutri.vn/bgranghammat/bieu-hien-vung-mieng-cua-nhiem-hiv-aids/)

Tin cùng nội dung

  • Khi ung thư hay việc điều trị ung thư gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường, những thay đổi là cần thiết để cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân. Thu*c có thể được dùng để kích thích khẩu vị.
  • Từ bỏ thói quen hút Thuốc và các sản phẩm từ Thuốc lá là cách duy nhất để làm giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh cho bản thân và những người thân yêu của bạn. Dù rất khó để từ bỏ, hàng triệu người đã làm được. Tiếp theo bài viết “Từ bỏ thói quen hút Thuốc”, trong phần này, chúng tôi xin đưa ra một số gợi ý giúp bạn đối phó với những vấn đề thường gặp trong quá trình cai nghiện Thuốc lá. Các phương pháp này cũng có thể áp dụng với những người sử dụng Thuốc lá ở dạng khác (nhai, hít).
  • Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Người đối diện có thể thấy rõ cúp áo ngực mấp mô sau lớp áo phông của bạn; luôn thấy có vết lằn áo trên da, dây áo hay bị rơi khỏi vai... là lúc bạn nên thay áo lót.
  • Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
  • Những triệu chứng bệnh nha khoa phổ biến.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY