Chiến tranh thế giới lần thứ I tỷ lệ bỏng 0,04-0,6% tổng số thương binh, ở nước Pháp và nước Anh đã tổ chức một số bệnh viện chuyên điều trị về bỏng.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ II tỷ lệ bỏng tăng hơn, ở Liên Xô: 0,5-1,5%; ở Đức 0,24; ở Anh 1,5%.
Trận đánh giữa các chiến xa tỷ lệ đó tới 25-27% (quân đội Anh ở Bắc Phi), trận ném bom cháy ở Luân Đôn 10-5-1942, tỷ lệ bỏng tới 10% số người bị thương.
Ngày 6 và 9-8-1945 đế quốc Mỹ thả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagazaki làm ch*t 10 vạn 6 nghìn và bị thương 97.000 người so với tổng số dân 42 vạn người. Trong số nạn nhân này tỷ lệ bỏng 65% (bỏng đơn thuần hay hỗn hợp với vết htương và bệnh phóng xạ cấp).
Trong chiến tranh ở Triều Tiên: Mỹ dùng bom Napan, tỷ lệ bỏng ở Bắc Triều Tiên là 8% trong số người bị thương.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở nước ta, thực dân pháp dùng súng phun lửa dận, pháo có chất Phốt pho trắng, bom Napan, tỷ lệ bỏng trong một số các chiến dịch là 3-7%.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, đế quốc Mỹ tăng cường sử dụng nhiều loại vũ khí gây cháy: Napan, Phốtpho trắng, Tecmít, Magiê.
Khi cháy tạo ra sức nóng cao, cháy lâu, có chất khi cháy tạo ra nhiều chất độc cho cơ thể, có chất gây bỏng đồng thời là chất độc cho cơ thể.
Xà phòng nhôm gồm napthénat và palmitat nhôm dùng để làm đặc vón xăng từ dạng lỏng sang dạng keo. Có thể thay thế xà phòng nhôm bằng IM (Isobutyl Methyl metacrylate) để ngưng kết xăng.
Dễ cháy, cháy thành đám lớn với nhiệt độ 800-13000C nếu được trộn lẫn Magiê và Nitrat thì gọi là Napan pyrogen (super napan) do nhiệt cao hơn 1500-20000C. Hiện nay có loại napan B còn gọi là napan polystyrol.
4P 5O2 - 2P2O5 sinh nhiệt 900-12000C.
P2O5 H2O HPO3, H2PO3, H3PO3 gây bỏng do axit.
Al Fe2O3 trộn với dầu sơn và dùng bari nitrat Ba(NO3)2 để làm điểm hoả (tạo ra nhiệt độ cao 2000-30000C làm cháy bột Al Fe2O3. khi cháy không cần oxy của không khí vì lấy oxy trong Fe2O3.
Cần chú ý các loại bom đạn cối, pháo, mìn thông thường nếu ở gần tâm nổ có thể bị thương kết hợp với bỏng do lửa của sản phẩm nổ bom đạn hoặc trong những vụ nổ bom cỡ lớn do máy bay B52 ném cũng có tỷ lệ bị bỏng. Nhưng thường gây ra bỏng nông, nhưng vẫn nặng vì có kèm hội chứng sóng nổ, vùi lấp hoặc vết thương phối hợp.
Vị trí: Phần nhiều ở phần hở: mặt, hai bàn tay (80% trường hợp) ở bàn tay bỏng mu tay nhiều hơn gan tay, nhưng nếu là bỏng Phốtpho trắng thì thường bị bỏng sâu ở gan tay (do thương binh dùng gan tay dập lửa).
Diện tích, độ sâu: Thường có độ sâu và diện tích lớn. Diện tích và độ sâu phụ thuộc vào cách phòng tránh, cách bố trí phòng ngự hầm hố, công sự và trang bị của bộ đội. Nếu có công sự tốt có phương tiện phòng chống cháy thì thường gặp bỏng nông với diện bỏng không lớn.
Thường kèm theo vết thương phối hợp: Thường gặp bỏng hỗn hợp với vết thương phầm mềm, gãy xương tứ chi, hội chứng sóng nổ. Về vũ khí thì thường gặp vết thương do mảnh pháo, cối, mìn, B40, B41, bom...
Vết thương bỏng ô nhiễm: Xuất tiết nhiều, hôi thối, có thể có dòi, dễ gây nhiễm khuẩn huyết và Tu vong cao, vết thương lâu khỏi và để lại di chứng tàn phế.
Những di chứng bỏng để lại gây ảnh hưởng xấu đến chức năng vận động, thẩm mỹ và về mặt tâm lý người bị thương.
Trong chiến tranh hạt nhân thường gặp các thương tổn bỏng hỗn hợp với bệnh phóng xạ cấp hoặc các loại chấn thương khác.
Bỏng ở những phần cơ thể bị bức xạ ánh sáng chiếu thẳng vào (người đứng sau cửa sổ chỉ bỏng phần cơ thể hướng ra cửa sổ vì bứa xạ ánh sáng đi theo đường thẳng). Do đó thường thấy chỉ bỏng ở một phía (hướng về tâm nổ) của cơ thể. Diện tích bỏng thưởng không lớn.
Bỏng theo màu của quần áo, màu đen hấp thu gần hoàn toàn năng lượng ánh sáng chiếu vào nó và ngược lại màu trắng phản xạ gần hoàn toàn năng lượng ánh sáng, do đó mặc quần áo đen bỏng nặng hơn. Nếu mặc quần áo hoa, kẻ ô có màu hình thể tổn thương sẽ theo hình quần áo.
Da đỏ trong vài giờ đầu, vài ngày tiếp theo là giai đoạn tiềm vài giờ đến vài tuần tuỳ theo liều phóng xạ rồi xuất hiện da đỏ lần thứ 2 nếu nặng thì xuất hiện các nốt phỏng trên nền da đỏ, những nốt phỏng tụ lại với nhau thành đám, tự nó vỡ đi để lộ ra nền đỏ rất đau, rồi chuyển dần thành nốt loét, đáy ghồ ghề, xuất tiết, nhiều mủ, loét dai dẳng từ vài tuần đến vài tháng rồi tự khỏi nhưng có thể bị tái phát.
Da quanh đám loét bị rối loạn dinh dưỡng (teo, rụng lômg, sẹo xấu). Toàn thân có thể bị sốt kèm theo tăng bạch cầu, viêm bạch mạch và viêm hạch bạch huyết vùng bị bỏng.
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của bỏng do vũ khí hạt nhân. Bệnh phóng xạ cấp ảnh hưởng xấu đến bệnh bỏng và ngược lại. bệnh lý của thương tổn hỗn hợp có đặc điểm sau:
Bỏng độ II có thể tự liền da được nếu liều bị chiếu xạ hoặc nhiễm xạ dưới 100-150R và thời kỳ tiềm của bệnh phóng xạ cấp dài.
Bỏng độ III (trung bì) sẽ liền lâu hơn, sự tiến triển của bệnh bỏng do mức độ nặng nhẹ của bệnh phóng xạ cấp quyết định.
Bỏng độ IV, V từ ngày thứ 4 trở đi đến ngaỳ thứ 6, có đường viền gianh giới phần lành và phần ch*t nhưng số lượng bạch ít và bị tan rã nhiều nên sự hình thành của đường viền gianh giới chậm, do đó mô hoại tử rụng chậm, mô hạt hình thành chậm, quanh mô hạt nhiều mao mạch tân tạo hình thành do đó mô hạt dễ chảy máu.
Do tại vết bỏng quá trình tái tạo chậm, dễ chảy máu, dễ nhiễm khuẩn nên làm bệnh phóng xạ cấp thêm trầm trọng, ngược lại hội chứng thiếu máu, giảm bạch cầu, tiểu cầu trong bệnh phóng xạ cấp làm cho bệnh bỏng đã nặng lại càng nặng thêm.
Hầm hố. công sự, giao thông hào là cách phòng tốt nhất, hầm có nắp hầm kèo, có phương tiện chống cháy cho người và phương tiện khí tài nhiên liệu.
Hầm có 2 cửa, có giao thông hào để dễ thoát ra ngoài khi bị cháy. Dập tắt lửa tốt: dùng nước, khí CO2, cát, chăn, bạt ướt. Tốt nhất là ngâm nước để tắt lửa, dập bằng chăn ướt không được làm vỡ nốt phỏng.
Không bôi chất gì, băng khô (trừ bỏng do hoá chất, bỏng do phốtpho trắng); băng hơi ép chặt để giảm thoát huyết tương.
Độ IV,V. Hoại tử khô: không băng, hoại tử ướt: băng. Dùng loại băng dải hoặc có thể quấn khăn, vải màn sạch để băng. Nếu có vết thương dù ở bỏng độ mấy cũng băng. Có thể băng cả trên quần áo cháy rách không cần cởi. Nếu cởi dùng kéo cắt nhẹ nhàng, những nơi khó hoặc dính vào vết bỏng để lại.
Xử trí vết bỏng tuỳ theo độ tổn thương và nguyên nhân gây bỏng: (bỏng do hoá chất, bỏng phốtpho trắng, bỏng phóng xạ).
Uống dịch thể, cấp cứu thuỷ (Nếu người bỏng nôn hoặc chướng bụng hoặc có vết thương thấu bụng thì không cho uống nước và các loại dịch thể).
Truyền dịch thể đường tĩnh mạch theo phác đồ theo dõi các triệu chứng toàn thân và các xét nghiệm máu, nước tiểu (huyết áp động mạch, huyết áp tĩnh mạch, nhiệt thân, nước tiểu, nhịp thở, chất nôn . . .).
Loại I: Cần cấp cứu tối khẩn cấp và khẩn cấp: ngừng hô hấp, ngừng tim, rối loạn hô hấp cấp, rối loạn tuần hoàn cấp, chi bị hoại thư sinh hơi, trạng thái nhiễm độc cấp.
Loại III: bỏng vừa và nặng: diện bỏng từ 20 - 25% diện tích cơ thể trở lên. Nếu có bỏng sâu chuyển về tuyến phẫu thuật ghép da chữa bỏng.
Loại IV: bỏng nông diện hẹp dưới 5% diện tích cơ thể chữa ở tuyến trung đoàn. Bỏng nông diện hẹp từ 5% đến 20 - 25% diện tích cơ thể giữ lại ở tuyến sư đoàn, đội điều trị.
Loại V: bỏng có tổn thương hỗn hợp: phân loại nặng, nhẹ, theo mức độ tổn thương chủ yếu và chuyển về các bệnh viện chuyên khoa tuyến sau.
Khi có nhiều người bị bỏng về cùng 1 lúc, cần tổ chức phân loại chọn lọc tốt, tổ chức lều (hầm) chữa sốc riêng cho các người bị bỏng, theo dõi các người có bỏng đường hô hấp, có trạng thái nhiễm độc cấp, có tổn thương hỗn hợp. Cần tổ chức khu vực riêng cho những người bị bỏng nhẹ. Tổ chức các kíp thay băng cho từng khu vực. Chú trọng công tác săn sóc vệ sinh nuôi dưỡng. Công tác vận chuyển cần bảo đảm an toàn dự phòng sốc bội nhiễm vi khuẩn.
Nguồn: Internet.