Cây dứa dại còn gọi là dứa biển, dứa núi, dứa gai, dã ba la, sơn ba la, lộ đầu từ..., tên khoa học Pandanus tectorius Sol.
Lương y Bùi Đắc Sáng cho biết, dứa dại là cây Thu*c rất quý, hầu như có thể sử dụng tất cả bộ phận từ rễ, lá đến hoa, quả. Người ta thu hoạch rễ cây dứa dại khi nó còn non, rủ xuống nhưng chưa bám vào đất, sau đó rửa sạch, thái lát sấy hoặc phơi khô để dùng dần. Phần màu trắng của cuống lá khi còn non có thể ăn. Quả của cây dứa dại thái mỏng phơi khô.
"Chưa có nghiên cứu nào chỉ ra được những thành phần hóa học có trong cây dứa dại. Tuy nhiên, hoa dứa dại chứa rất nhiều tinh dầu benzyl, có thể chưng cất hạt phấn hoa và lá để lấy hương liệu hay làm dầu thơm", lương y Sáng cho biết.
Công dụng nổi bật nhất của quả dứa dại là chữa lành vết thương, chống giảm thị lực và viêm tinh hoàn. Theo cuốn Lĩnh Nam Thái Dược Lục, đọt non của cây dứa dại, rửa sạch và giã nát để đắp vào vùng có vết thương, tác dụng hút mủ ra khỏi vết thương và giúp lành nhanh vết viêm loét. Rễ cây giã nát đắp vào vết thương có tác dụng lành vết thương, chống viêm nhiễm. Rễ dứa dại cũng có thể sắc cùng hạt chuối hột và kim tiền thảo, uống 2-3 lần trong ngày, mỗi lần 100-150 ml, trước bữa ăn, để chữa sỏi thận, viêm tiết niệu.
Trong sách Cương Mục Thập Di cũng giới thiệu bài Thu*c chữa triệu chứng thị lực giảm, nhìn không rõ, bằng quả dứa dại. Cách làm là thái lát mỏng quả dứa dại ngâm mật ong, ăn mỗi ngày một quả, liệu trình một tháng.
Để chữa viêm tinh hoàn, bài Thu*c là hạt quả dứa dại 60 g nấu cùng lá quất hồng bì 30 g, lấy nước rửa hàng ngày.
Theo lương y Sáng, tác dụng khác trong rễ, lá, hoa, quả dứa dại là giúp cơ thể thanh nhiệt, giải độc. Rễ dứa dại tính mát, vị ngọt, có công dụng làm ra mồ hôi, giải nhiệt, chữa cảm mạo, sốt dịch, viêm gan, viêm thận, viêm đường tiết niệu, đau mắt đỏ, thương tổn do chấn thương. Rễ dứa dại sao thơm sắc uống 2 lần một ngày còn chữa mất ngủ.
Lá dứa dại non có vị ngọt, tính hàn, có công dụng tán nhiệt độc, lương huyết, cầm máu, sinh cơ, được dùng để chữa các chứng bệnh như sởi, ban chẩn, nhọt độc, chảy máu chân răng... Phần đọt non của lá cây dứa dại có vị ngọt và tính lạnh, có thể giải độc, thanh nhiệt cơ thể. Sắc phần đọt non dứa cùng búp tre để uống giúp thanh tâm giải nhiệt.
Hoa dứa dại tính hàn, vị ngọt, dùng để chữa sán khí (thoát vị bẹn hoặc thoát vị bìu, đau từ bìu lan lên bụng dưới), đối khẩu sang (nhọt mọc ở gáy chỗ ngang với miệng), cảm mạo. Quả dứa dại tính bình, vị ngọt thường được sử dụng để bổ tỳ vị, ích nguyên khí, điều hòa âm dương, làm mạnh trí thần, ích huyết, giải ngộ độc rượu, nhẹ đầu, sáng mắt, khai tâm, tiêu đờm...
Lương y Sáng lưu ý, nếu không có hướng dẫn của thầy Thu*c thì không nên sử dụng cây dứa dại. Lý do là lớp phấn trắng ở lá có chứa độc tố, nếu không được bào chế đúng cách mà vẫn sử dụng trong một thời gian dài có thể gây ra ngộ độc, viêm thận.
Thúy Quỳnh (VnExpress)Chủ đề liên quan:
cây dứa cây dứa dại chống viêm dứa dại Lương y Bùi Đắc Sáng Pandanus tectorius tác dụng