Người ta thường dùng hồng hoa (Flos Carthami) là hoa phơi hay sấy khô của cây hổng hoa (hoa màu hồng do đó có tên hồng hoa).
Cây thuộc thào, cao 0,60-1m hay hơn, không có lông, thân trắng có vạch dọc. Lá mọc so le không có cuống, mép có răng cưa nhọn. Cụm hoa gồm những đầu họp lại thành ngù. Hoa màu đỏ cam đẹp, lá bắc có gai. Quả bế có bốn cạnh lổi nhỏ dài 6-7mm, rộng 4-5mm.
Cây này được trồng ờ Việt Nam, trước đây nhiều nhất ở Hà Giang. Hiện nay đang nghiên cứu phát triển nhiều nơi. Khi hái phải hái vào đúng lúc hoa có màu hồng và lúc hoa đủ tuổi, nhiều hoạt chất, phơi trong mát.
Trong hồng hoa có chừng 0,3-0,6% chất gluxit gọi là cactamin (carthamin) (một sắc tố màu hồng). Ngoài ra còn chứa mọt sắc tố màu vàng tan trong nước và rượu. Dung dịch nước cất dễ bị phân giải.
Cactamin là một chất có tinh thể màu đỏ khi tác dụng HCl lạnh sẽ cho isocactamin, thuỷ phân sẽ cho glucoza và cactamidin.
Nước sắc hồng hoa thí nghiệm trên tử cung cô lập và không cô lập của chuột, thỏ, mèo, chuột bạch và chó thấy có tác dụng kích thích lâu dài.
Nước sắc hồng hoa hạ thấp huyết áp của chó và mèo, làm tãng sự co bóp của tim, co nhỏ mạch máu thận và co cơ trơn phế quản của chuột bạch.
Lưu Thiệu Quang (Trung Quốc) có thí nghiệm tác dụng cao lỏng hồng hoa lên tử cung cô lập cùa chó, mèo, nhận xét thấy dù tử cung của con vật có thai hay không, đều có tác dụng làm tăng sự co giãn, cuối cùng thì không co giãn được nữa. Nếu rửa Thuốc đi tử cung trở lại bình thường.
Tính vị theo đông y: Vị cay, ấm, vào hai kinh tâm và can. Có tác dụng phá ứ huyết, sinh huyết mới, chữa kinh nguyệt bế tắc, sản hậu ứ huyết, thai ch*t trong bụng. Còn có tác dụng giải nhiệt ra mồ hôi. Phàm khống ứ, trệ không được dùng.
Trong đông y hồng hoa dùng chữa kinh nguyệt khống đều, bệnh thấy kinh đau bụng, bệnh kinh nguyệt xấu, bệnh mất kinh (amenorrhee), bệnh khí hư, viêm dạ con, viêm buồng trứng, có khi dùng uống cho ra thai ch*t trong bụng.