Bài thuốc dân gian hôm nay

Chim ưng và vị Thuốc chi điểu

Chim ưng (Accipiter spp) thuộc họ ưng (Accipitridae), tên khác là chim cắt, chim bồ cắt, là một loài chim dữ, ăn thịt, có thân cỡ trung bình,
chim ưng (Accipiter spp) thuộc họ ưng (Accipitridae), tên khác là chim cắt, chim bồ cắt, là một loài chim dữ, ăn thịt, có thân cỡ trung bình, đầu thuôn dẹt, mắt to màu vàng cam, mỏ nhọn sắc quặp xuống, cổ ngắn, cánh dài, sải cánh rộng, đuôi dài, chân khỏe màu vàng, có móng sắc.

Có 2 loài chỉ khác nhau ở bộ lông:

chim ưng lớn (Accipites gentilis schvedowi Menzbier). Đầu, cổ màu xám đen, gáy có phớt trắng, mép trán và trên mắt có vệt đen nhạt. Lưng màu xám nâu. Bụng trắng tuyền có vân nâu thẫm. Lông cánh màu nâu nhạt. Đuôi nâu xám sẫm. Chim đực có màu hơi sáng hơn chim cái.

chim ưng màu trắng (Accipiter nisus nisosimilis Tickell). Đầu, trán và trước mắt màu xám. Các lông trên mắt có gốc màu trắng rõ tạo thành hình lông mày. Ở gáy cũng có một vệt trắng do gốc lông tạo thành. Mặt lưng màu xám chì, hông hơi nhạt. Mặt bụng trắng hay hung nhạt. Từ ngực, sườn và bụng đến đùi có những vằn ngang hẹp màu nâu đỏ. Lông cánh có vân đen nhạt, dưới cánh và nách màu trắng, có vằn nâu thẫm. Đuôi lông có mút trắng và 4 dải ngang rộng màu nâu.

chim ưng phân bố ở phía Bắc và Trung Á, đến mùa đông, di cư xuống Ấn Độ, Myanmar, Trung Quốc, Sri Lanka, Thái Lan, Lào, Campuchia. Ở Việt Nam, chim thường bắt gặp ở vùng núi và thỉnh thoảng ở đồng bằng vào tháng 11-2. Loài chim ưng lớn hiếm hơn.

Trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, chim ưng được dùng với tên Thuốc là chi điểu hay ưng điểu gồm các bộ phận như thịt, xương, đầu và mắt.

Thịt chim ưng: Có vị cay, mặn, tính ấm, không độc, có tác dụng trừ chứng tà độc, tổn thương. Dạng dùng thông thường là thức ăn - vị Thuốc như nấu chín, hầm nhừ. Có thể thêm những vị Thuốc nguồn gốc thực vật cùng tác dụng.

Xương mình hay xương cánh chim ưng: Có tác dụng mạnh gân xương, trừ phong thấp, chủ trị gãy xương, đau khớp, chân tay tê lạnh. Thường được đốt tồn tính, dùng uống mỗi lần 8-12g hòa với ít rượu; đồng thời, dùng rượu ngâm xương xoa bóp bên ngoài.

Xương đầu chim ưng đốt tồn tính, tán bột uống chữa bệnh trĩ và chứng váng đầu, chóng mặt, hoa mắt.

Ngoài ra, tài liệu cổ còn ghi dùng mắt chim ưng nấu ăn sẽ làm mắt thêm sáng, bớt mỏi mờ.

DS. Hữu Bảo

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-chim-ung-va-vi-thuoc-chi-dieu-17899.html)

Tin cùng nội dung

  • Dùng rượu làm phụ liệu có ý nghĩa tăng tính ấm cho vị Thuốc, làm cho khí vị của Thuốc đi lên trên thượng tiêu.
  • Tết đến, các gia đình thường mua hoa để trưng bày trong nhà. Tuy nhiên, ít ai biết được rằng, bên cạnh vẻ đẹp, các loại hoa Tết như đào, hoa hồng, cúc vạn thọ, hoa mào gà… còn là những vị Thuốc quý.
  • Các loại rau thơm không chỉ làm cho các món ăn thêm hấp dẫn, mà còn góp phần không nhỏ trong việc phòng và chữa bệnh.
  • Đan sâm cải thiện tuần hoàn mạch vành, giảm đau thắt ngực, ngăn ngừa xơ vữa, tiêu cục máu đông – vị Thuốc không thể thiếu trong Đông y để trị bệnh tim mạch
  • Khi bị đầy bụng, khó tiêu, ngoài việc nên tránh những thức ăn khó tiêu như dầu, mỡ động vật, và nên ăn các loại thức ăn dễ tiêu, nấu mềm, chúng ta có thể dùng các vị Thuốc có tác dụng kích thích tiêu hóa là những quả, cây, lá có sẵn trong vườn nhà, vừa không tốn kém lại không gây hại cho cơ thể.
  • Cây qua lâu (trichosanthes kirilowi maxim.) thuộc họ bí (cucurbitaceae), có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua (tên gọi ở miền Bắc, dây bạc bát, bát bát châu (tên miền Nam), người Tày gọi là thau ca.
  • Các dược liệu này sau khi ngâm tẩm bằng rượu, có thể sử dụng độc vị, hoặc phối hợp với các vị Thuốc hình thành bài Thuốc ngâm rượu, hoặc sắc uống có tác dụng bồi bổ cơ thể sau khi suy nhược về khí huyết, ngũ tạng hư suy, giúp cân bằng âm dương phòng và chữa bệnh rất tốt, hiệu quả góp phần cải thiện sức khỏe.
  • Theo Đông y, gừng khô vị cay, tính ôn; vào các kinh tâm, tỳ, phế và vị. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch.
  • Nhót được trồng ở khắp các vùng miền trong cả nước. Lá nhót chứa tanin, saponosid, polyphenol. Quả nhót chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, được dùng để nấu canh chua, vị thơm; quả nhót xanh, thái ngang dày 3 - 5mm, phơi hoặc sấy khô để làm Thuốc.
  • Hoa hòe là hòe mễ, mễ là hạt gạo, ý nói vị Thuốc từ hoa hòe, có kích thước chỉ bằng hạt gạo, nghĩa là còn ở dạng nụ hoa, mới được dùng làm Thuốc.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY