Tâm linh hôm nay

Con đường duy nhất (P.4)

Không có cái gì do một nhân mà hình thành, nếu ai nói như thế thì biết người này chưa hiểu rõ lýnhân quả. Lý nhân quả là nền tảng cơ bản sống còn của con người, nếu chúng ta biết áp dụng vào thực tiển thì người người sẽ được cơm no áo ấm, nhà nhà an vui hạnh phúc, xã hội sẽ không còn lầm than đau khổ vì con người biết sống yêu thương hơn.

14. NGƯỜI PHẬT TỬ SỐNG NHƯ THẾ NÀO MỚI ĐÚNG?


Phật tử ngoài việc quy y Tam bảo, quy hướng Phật, pháp, Tăng và phát nguyện thọ trì 5giới cấm, Phật tử còn phải học hỏi lời Phật dạy tin sâu sâu nhân quả, tin tâm mình là Phật, tin mình có khả năng thay đổi những nỗi khổ niềm đau thành an vui, bình yên và hạnh phúc.

Theo thực tế cuộc sống hiện tại có nhiều Phật tử đi chùa nhưng họ đến để cầu khẩn van xin một cái gì đó, không liên quan đến nhân quả nghiệp báo và việc tu tập tỉnh thức tâm linh. Một số người đến chùa cúng Phật rất nhiều, để cầu buôn may bán đắt, làm ăn phát đạt hoặc xin xăm bói quẻ, nếu được quẻ tốt thì mừng cúng Phật nhiều, nếu gặp quẻ xấu thì buồn bã bỏ về. Nếu chúng ta đến chùa để cầu khẩn van xin như thế, thì chùa có khác gì đình miếu.

Thực ra trong cuộc sống này không có gì đúng cũng không có gì sai, chẳng qua nó hợp với sở thích thói quen của mình nên chúng ta cho là đúng và không hợp thì cho là sai.Tùy theo hoàn cảnh và sự tác động nguyên lý duyên sinh của xã hội mà ý niệm đúng sai được thay đổi để thích nghi với cuộc sống hiện tại.

Cách nay 50 năm về trước nếu muốn nấu nước sôi ta phải dùng gì để đun, thì người ta sẽ nói dùng củi, dùng rơm rạ hay dùng than. Cũng câu hỏi đó ngay trong thời điểm này, người ta sẽ trả lời là dùng bếp ga hay bếp điện. Chúng ta thấy không, các câu trả lời đều đúng cả. Nếu chúng ta cứ mãi kẹt vào ý niệm đúng, sai là tự mình chấp nhận có cái ta thiệt. Ý niệm về tốt xấu, đúng sai dẫn đến tranh đấu hơn thua, được mất mà tạo ra ân oán thù hằn không có ngày thôi dứt, bởi chúng ta hãnh diện, kiêu ngạo vì thấy mình làthật ngã.

Chúng ta mặc cảm vì thấy mình không đẹp hay sang trọng như người khác, nên không được mọi người chú ý đến. Đẹp nên ta thấy mình hơn người, và được mọi người trọng vọng yêu thích. Xấu hay đẹp do phước duyên tu tạo nhiều đời của mình, nhưng đó chỉ là vẻ đẹp hình thức không quan trọng cho lắm. Như chúng ta không có vẽ đẹp bên ngoài nhưng mà lại biết tu, biết làm phước, cái đẹp của ta được phát xuất từ nội tâm thanh tịnh, nên cái đẹp của nột tâm lúc nào cũng có sức thuyết phục mọi người.

Cái đẹp bên ngoài nó chỉ tồn tại một thời gian nào đó, nhưng nó dễ làm cho con người ta dính mắc bám víu vào đó khi nhan sắc đã tàn phai. Nhìn người đẹp, ta biết người này nhiều đời có tu nên hình dáng tướng đi có phần hấp dẫn dễ gây thiện cảm với nhiều người. Ta nay hình dáng tướng tá xấu xí biết mình nhiều đời không có tu, nên dung nhankhông được tươi mát, nhìn đó mà bản thân phải cố gắng lo tu tập nhiều hơn. Khi tabuông bỏ được ý niệm về hình thức, ta sẽ có thời gian làm đẹp nội tâm bằng cách phước huệ song tu.

Đi chùa lễ Phật, ở nhà ăn chay, tụng kinh niệm Phật, ngồi thiền, làm phước cúng dường,tham gia các tổ chức từ thiện, đóng góp cho xã hội là điều cần thiết của một Phật tửchân chính. Những hoạt động trên có tác dụng rất lớn, khiến bản thân mình vui vẻ, hạnh phúc.

Hiện nay tình trạng Gi*t người cướp của, cướp giật trên đường phố, gian dâm, lường đảo cả nhà nước lẫn người đời, buôn bán chuyển vận xì-ke M* t*y, nhậu nhẹt lu bù, gây lộn rồi Đ*m ch*m nhau. Rõ ràng đạo Phật không thể giải quyết được nạn thất nghiệp, suy thoái kinh tế, nạn đầu cơ tích trữ tăng giá giả tạo, nạn tắc nghẽn xe cộ trong giờ cao điểm, nạn gái M*i d*m, nạn xì-ke M* t*y, băng đảng, xả rác bừa bãi, tàn phá núi rừng cây cỏ, nạn tham nhũng v.v…

Quán chiếu vào cuộc sống chúng ta thấy mọi phiền não khổ đau, do chính ta tạo ra bởi tham lam, ích kỷ, nóng giận, si mê vì thiếu hiểu biết. Do đó người Phật tử khôn ngoan là phải biết nói lời xin lỗi mỗi khi làm ai buồn phiền hoặc vô tình hay cố ý. Chẳng hạn mình mở một cánh cửa vô tình đụng phải người ta, chưa biết lỗi về ai, nhưng nếu mình lên tiếng xin lỗi trước, thì mọi chuyện sẽ vui vẻ. Nếu mình cố biện minh, chối cãi thì câu chuyện trở nên căng thẳng, rắc rối… và dễ dẫn đến cãi vả không vui vẻ với nhau, có khi thù hằn ghét bỏ.

Lời xin lỗi có tác dụng rất lớn khiến người bị xúc phạm dễ cảm thông mà bỏ qua, nhờ vậy chúng ta trưởng thành và chín chắn hơn trong cuộc sống. Khi chúng ta nghịch ngợm phá phách làm cho cha mẹ buồn lòng. Chúng ta phải biết nói lời xin lỗi mong cha mẹ tha thứ bỏ qua. Lời xin lỗi đó khiến cha mẹ, cũng như những người khác cảm động và còn thương mình nhiều hơn nữa và dĩ nhiên sẽ bỏ qua lỗi lầm đó.

Biết nói lời cám ơn mỗi khi hỏi ai một điều gì hoặc nhờ họ giúp đỡ, như khi các em học sinh chào cô giáo rồi, thì cô cũng không quên nói “Cám ơn các em”. Nếu chúng là người bán hàng khi có khách đến hỏi mua một món đồ, mình nói giá xong họ nói cao quá rồi không mua, mình phải nói em cám ơn chị, nếu chị hỏi giá chỗ khác mà bằng ở đây, thì hãy quay lại mua dùm em nhé; em xin cám ơn chị nha! Lời “cám ơn” như chúng ta đang rót mật vào lòng, làm mát lòng người nghe và chứng tỏ mình là người khiêm tốn và có giáo dục.

Người Phật tử khi đã hiểu đạo rồi thì phải lấy hạnh khiêm tốn làm đầu, vì có khiêm tốn thấp mình thưa hỏi đạo lý mới học được điều hay lẽ phải biết được cội nguồn của giác ngộ, giải thoát. Người Phật tử phải nên nhớ rằng muốn mình thật sự khiêm tốn hay không thì chúng ta bước đầu phải tập nhẫn nhịn đối với những việc trái ý nghịch lòng, nhẫn không có nghĩa là hèn nhát.

Chính vì vậy, người Phật tử bất cứ trong lĩnh vực nào muốn được thành công như học hành, làm ăn buôn bán, sự nghiệp chính trị, hay tu hành cũng vậy…, chúng ta phải luôn luôn khiêm tốn thì mới được lòng mọi người. Ngược lại với khiêm tốn là kiêu căng, hách dịch, phách lối, tự cao như vậy vô tình chúng ta sẽ có nhiều người thù ghét, làm ảnh hưởng công việc của mình. Vì sự ngã mãn, cho mình là hơn hết, không kính phục mọi người, nên chúng ta bỏ mất cơ hội để học hỏi. Do khinh khi người nên chúng ta bị tổn đức, do đó tội lỗi phát sinh làm hại người và vật.

Luôn nói lời khen ngợi, bớt chê bai chỉ trích đó cũng là cách chúng ta biết làm vừa lòng mọi người. Trong suốt 49 năm giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi nhàm chán, Phật lúc nào cũng khen ngợi, động viên khuyến khích, không chê bai, không tranh cãi, và từ tốn nhẹ nhàng trong việc đối nhân xử thế.

Chúng ta nên nhớ rằng lời khen đúng làm mát lòng người nghe, nhưng một lời khen sai thì nguy hiểm vô cùng, như người uống rượu có tửu lượng cao, chúng ta khen họ vô tình hại họ mau ch*t sớm nếu không cũng thân tàn ma dại. Tuy nhiên lời chê đúng, làm người nghe hơi khó chịu, nhưng đó là lời nói trung thực có thể giúp họ sống tốt hơn.

Trong lúc chúng ta hứng chí nói chuyện với huynh đệ hay bạn bè, vô tình chê bai một người nào đó nếu nhẹ thì giận hờn chút ít, nặng thì tranh cãi chửi bới nhau. Chê bai khác với xây dựng góp ý chân thành, góp ý là giúp cho người đó thấy được cái sai của mình mà sửa đổi, chê bai tức là nói cái xấu của họ ra cho mọi người biết.

Người Phật tử chân chính không nên tranh giành lợi lộc với ai. Trong mua bán làm ăn, hùn hạp nếu được chia tiền lời, trong gia đình phải chia gia tài do cha mẹ để lại thì chúng ta nên nhường nhịn anh chị em một chút cũng không sao. Tranh giành gia tài, kẻ hơn người kém là nguyên do dẫn đến anh chị em con cháu chia lìa, rồi trở nên thù ghét và có khi đi đến giết hại nhau.

Mọi chuyện xảy ra trên đời này đều có nguyên do. Nếu không do lỗi mình thì ắt hẳn lỗi người. Nếu là lỗi người và nếu nhỏ thì ta nên bỏ qua. Nếu là lỗi mình thì mình rút kinh nghiệm mà tu sửa. Chớ có khăng khăng kết tội người, quay lại chính mình để nhìn thấy được lỗi minh, thì ta sẽ biết cách chuyển hóa.

Người biết nhận lỗi là người can đảm và có tinh thần trách nhiệm rất cao. Một đất nước mà từ thứ dân cho đến vua quan, làm lỗi mà biết nhận lỗi và sửa sai thì thế này sẽ làthiên đường của hạnh phúc.

Chúng ta khi làm việc lỡ gây tạo tội lỗi cho một ai đó, đối với lương tâm mình biết xấu hổ, như chúng ta lỡ lấy một vật gì của ai, đối với mình cảm thấy xấu hổ ray rức trong lòng. Ta phải tự nhủ thầm mình là Phật tử thì không được tham lam trộm cướp, lường gạt của người khác, nghĩ như vậy rồi ta sẽ hối hận, ăn năn mà không dám tái phạm nữa.

Chỉ loài người nhờ có ý thức và sự hiểu biết nên mới xấu hổ. Loài súc vật sống theo quán tính tập nghiệp, nên không biết xấu hổ khi chúng nó trần truồng. Nhưng loài người sẽ cảm thấy xấu hổ khi chúng ta không mảnh vải che thân, ngày xưa con người chưa văn minh tiến bộ nên phải lấy lá, vỏ cây để che thân.

Ngày xưa hình phạt lõa thể là hình phạt ô nhục nhất của đàn bà. Do đó những kẻ ăn mặcKhi*u d*m, hở hang quá đỗi để chụp hình đăng báo, bán cho người ta xem mà không biết xấu hổ là loại người thiếu văn hóa giáo dục. Trong một đất nước mà kẻ trộm cắp,nói dối, lường gạt, thi cử gian lận, dâm ô, chen lấn không xếp hàng, xả rác bừa bãi, nói năng thô bỉ mà không hề biết xấu hổ, thì đó chính là những người thiếu hiểu biết và không có lương tâm.

Nói tóm lại, biết hổ thẹn và xấu hổ là một đức tính tốt. Người biết xấu hổ mới mong tránh được những tội lỗi và mới có thể làm người tốt trong hiện tại và mai sau. Là người Phật tử chân chính, chúng ta phải biết hổ thẹn khi lỡ làm điều gì sai quấy, đó là chúng ta biết tu tâm, sửa tính.

Người Phật tử chân chính chúng ta chớ nên can dự và tham gia vào những việc tào lao. Trong gia đình, ngoài xóm làng, nơi làm việc, trong trường học hoặc cả nơi công cộng, chỗ nào cũng có thể xãy ra rất nhiều chuyện tào lao. Nói chuyện tào lao, không đem lại lợi ích gì cho chúng ta mà còn làm cho tinh thần bị rối loạn bởi những chuyện chẳng ra gì, do đó làm mất thời gian, có khi còn chuốc họa vào thân.

Người Phật tử chân chính lúc nào cũng luôn chính niệm tỉnh giác trong ý nghĩ, lời nói và hành động, không để cho “tâm viên ý mã” chạy lang thang đầu này đầu kia. Nói chuyện tào lao thiên địa rồi chê bai, chỉ trích đúng sai, bàn tán chuyện của người khác làm cho tâm thương ghét phát sinh mà tạo ra nỗi khổ niềm đau. Không can dự vào chuyện tào lao, không dính líu vào chuyện người khác đó là người biết khôn ngoan tạo cho mình sự an vui, bình yên và hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

Trong cuộc sống của chúng ta không ai là không có gia đình người thân, bạn bè, và đồng nghiệp. Gia đình người thân hay bạn bè có thể giúp đỡ ta rất nhiều về phương diệnsống, nhưng đôi khi vì lầm lạc cũng làm hại cuộc đời của ta. Chẳng hạn bạn bè rủ trốn học đi chơi, rủ ăn nhậu, rủ đi phòng trà ca vũ, bài bạc, hoặc bạn đồng nghiệp xúi bảochúng ta làm ăn bất chính v.v… nếu từ chối thì mất lòng, mất bạn, mất chỗ làm ăn có khi gây thù chuốc oán. Cùng một cơ quan nếu số đông là người xấu, vậy thì chúng ta phải làm sao đây?

Khi được bạn bè rủ rê trà đình tửu quán ta hãy khéo léo từ chối, nói rằng bác sĩ bảo bệnh viêm gan cần phải có thời gian chữa trị và kiêng cử, bạn thông cảm nha!

Không có gì quý giá cho bằng chúng ta có được nhiều người bạn tốt, ngược lại nếuchúng ta giao du với bạn xấu thì có ngày sẽ tán gia bại sản. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, quan hệ và quen biết với nhiều người tốt, chúng ta dễ dàng có cơ hội phát triển làm ăn một cách chân chính, nhờ vậy đời sống vật chất cho đến tinh thần được hài hòa tốt đẹp. Ngược lại, chỉ vì giao du với bạn xấu chúng ta có thể trở thành tệ nạn xã hội gây tổn hại cho gia đình và cộng đồng.

Người Phật tử chân chính không nên nói dối, đây là giới cấm rất quan trọng vì mục của nói dối là để lường gạt hoặc hại người. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ lànói dối để giúp người hay cứu người. Do đó tại gia đình, trong công sở, chốn công trường nếu chẳng may mình làm điều gì sai quấy, thì ta cứ thẳng thắn nhận lỗi hoặc sám hối.

Chúng ta đừng nên nói dối, đừng nên vu khống, đừng nên nói lật lộng biến trắng thành đen, đừng nên nói lời mê hoặc để dụ dỗ người khác như vậy sẽ tránh được những thảm họa đau thương mất mát xảy ra. Mục đích của nói dối, nhẹ là để khoe khoang, nặng là để tìm cách lường gạt người khác.

Ngoài việc quy y Tam bảo, phát nguyện thọ trì năm giới, chúng ta còn phải tinh tấn siêng năng với những việc làm tốt đẹp và tránh xa những điều xấu ác. Người học trò nhờ siêng năng chăm chỉ học hành, vâng lời thầy cô giáo cho nên mau giỏi. Người làm ruộng nhờtinh cần siêng năng nên cuối vụ mùa thu hoạch được kết quả cao. Người mua bán nhờ thức khuya dậy sớm siêng năng cho nên tiền của vô đều đều. Người tu hành nhờ tinh tấn siêng năng, mà mau được thành đạo, chứng quả. Ngày xưa đức Phật Thích ca Mâu ni và đức Phật Di Lặc cùng phát tâm tu một lượt, nhưng đức Phật Thích ca do siêng năng nên đã thành tựu trước.

Nói tóm lại, siêng năng là một đức tính tốt, là điều cần thiết cho tất cả mọi người chúng tabiết cách vươn lên để đạt được mục đích tốt đẹp là trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Chút phước duyên có được ngày hôm nay, kính mong được sẻ chia cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa.

15. TÂM BIẾT ĐỦ LÀ NGƯỜI GIÀU NHẤT THIÊN HẠ


Người thế gian vì mê muội không thấy được sự thật nhân quả nghiệp báo nên mới tham muốn, say mê, đắm nhiễm chodục lạc là số một. Người ý thức biếttham muốn nhiều là tai hại, là đau khổnên sống đời đơn giản, đạm bạc để vững chải, thảnh thơi...

Ngày xưa, có vị vua do nhờ biết tích lũyphước báo nhiều đời nên được làm vua của các vì vua, là bậc thông minh trí tuệhơn người nên thống trị khắp cả thế giannày. Vua tự xư mình là người giàu có nhất thiên hạ và cai trị hết cõi đất này.

May mắn thay, bên cạnh nhà vua còn có vị quan cận thần rất thông minh, tài giỏi, ông luôn thương yêu tất cả mọi người bằng trái tim hiểu biết. Chính sự từ bi và trí tuệ ấy đã giúp nhà vua tránh được nhiều lầm lỗi.


Tuy nhiên, tham vọng muốn mình là người giàu nhất thế gian vẫn luôn âm ĩ nên một hôm nhà vua họp mặt tất cả bá quan cận thần và hỏi: “Này các khanh! Các khanh hãy nói cho trẫm biết, trong vương quốc này ai là người giàu nhất thiên hạ?” Tất cả đều cùng nhau đáp: “Thưa hoàng thượng! Trong vương quốc này dưới sự trị vì của hoàng thượng, hoàng thượng là người giàu nhất không ai bằng.” Nhà vuacảm thấy rất thỏa mãn, hài lòng khi nghe mọi người cùng tâu lên như vậy.

Bỗng nhiên, một vị cận thần tên là Giải Thoát bước ra và nói: “Muôn tâu bệ hạ! Có một vị tỳ kheo tên là Tỉnh Giác, đời sống của vị ấy thật đơn giản. Vị ấy luôn sống hài hòa với muôn loài vật, đặc biệt là không bao giờ ăn thịt cá và luôn khuyên bảomọi người không nên sát sinh hại vật. Thức ăn chính của vị ấy chỉ là rau quả và các loại ngũ cốc.

Thần đã được tiếp xúc với vị thầy đó, nơi thầy ở muôn thú vây quanh hòa cùng cảnh vật, thiên nhiên dường như không có khoảng cách giữa con người và muôn loài vật. Nơi đó còn có khoảng trên 300 vị khất sĩ đang tu tập theo sự chỉ dạy của thầy. Chính thần đã chứng kiến khi đến giờ thọ trai toàn thể các vị đều ăn cơm trong im lặng, không nghe tiếng khua chén bát, chậm rãi, khoan thai ăn trong tỉnh giác.

Trước khi ăn họ cúng Phật và quán niệm công đức chúc phúc cho quý Phật tử. Sau khi ăn họ tụng bát nhã và hồi hướng công đức cho tất cả mọi người. Họ ăn vừa đủ, ăn trong sự biết ơn của thầy tổ, đàn na tín thí, đất nước và tất cả chúng sinh. Khác với triều đình chúng ta, mỗi khi ăn uống nói cười rộn rã, vui chơi trong no say để rồi đánh mất mình trong thiên hạ, có khi tranh chấp cãi vã ngay khi đang ăn uống.

Vua nghe vị cận thần tâu như thế nên trong lòng muốn tìm đến để hỏi một vài điều. Vài hôm sau, vua và đoàn tùy tùng đã đến chỗ ở của các vị khất sĩ ấy. Cây Bồ đềtrước cổng sừng sững hiên ngang với khoảng 4 người ôm không hết, có thể đã trên vài trăm tuổi. Gốc Bồ đề có nhiều tua như cuộn tròn cả thân cây tạo nên sự mát mẻ, trong lành.

Vua yêu cầu được diện kiến trực tiếp vị thầy trụ trì đó. Trong lúc chờ đợi ở nhà khách, vua bỗng dưng nhìn thấy một con người nhỏ nhắn đang tiến dần về phía mình mà không hề chớp mắt. Từng bước chân nhẹ nhàng, an lạc, thảnh thơi của người ấy đã toát ra một năng lực tự tại, bình yên và hạnh phúc. Vua chưa từng thấy một người nào có dáng vẻ uy nghi, trang nghiêm và thanh thản đến như vậy. Người ấy tiến dần đến trước mặt nhà vua nở một nụ cười hồn hậu và vái chào tất cả mọi người rồi ngồi xuống trong tư thế an nhiên.

Sau những lời chào hỏi và chúc tụng, nhà vua đặt liền câu hỏi: “Thưa thầy! Có phải thầy là vị khất sĩ mà mọi người vẫn thường đồn đại là người giàu có nhất thế gian này? Thú thật với thầy, tôi chính là nhà vua của đất nước này. Đã từ lâu tôi nghe tiếng lành đồn xa mà cho đến tận hôm nay tôi mới có cơ hội được diện kiến thầy. Sau khi gặp được thầy, tôi đã cảm nhận được một niềm an vui đang trào dâng trong lòng.”

Tuy biết được người đứng trước mặt mình là một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương và những người xung quanh là các quan cận thần nhưng nét mặt của vị thầy đó vẫn bình thản, an nhiên. Thầy luôn giữ được phong thái của người đã an nhiên, tự tại, giải thoát.

Vị thầy ấy đã hỏi nhà vua và các quan cận thần cất công đến đây chắc có điều gì chỉ dạy. Nhà vua đáp: “Ta chỉ muốn biết một sự thật về việc xưa nay mọi người đồn đoán thầy là người giàu nhất thế gian này.” Vị thầy đó mới hỏi lại: “Vậy theo nhà vua, thế nào là một người giàu nhất thế gian?” Nhà vua trả lời: “Người giàu nhất thếgian là người không thiếu bất cứ một món báu vật quý giá từ thức ăn uống, ruộng vườn, nhà cửa, người hầu, thê thiếp. Người đó có đủ tất cả mọi thứ, chẳng hạn như trẫm đây đang trị vì khắp thiên hạ.”

“Dạ thưa bệ hạ, khi nào chúng ta cần tìm cầu một thứ gì đó thì chúng ta mới thiếu phải không?” “Đúng là thế!” “Một người không còn tìm cầu và mong muốn bất cứ một điều gì nữa thì người đó có còn cái gì để mà thiếu nữa phải không?” “Thưa thầy, đúng như vậy!” “Vậy thưa bệ hạ! Người giàu nhất thế gian là người không còn thấy thiếu bất cứ một thứ gì cho bản thân mình nữa.”

Ngay khi đó, nhà vua chợt khám phá ra rằng người biết đủ dù nghèo mà vẫn giàu, người không biết đủ dù giàu có đến mức nào cũng luôn thấy mình nghèo. Và ngài cũng hiểu ra rằng vì sao mọi người đồn đại vị thầy này là người giàu nhất thế gian tuy trên người không có một thứ gì quý giá. Sau khi về lại hoàng cung, hình ảnh an lạc, thảnh thơi của vị thầy đó đã làm nhà vua thức tỉnh mà biết buông xả mọi thứ.

Kể từ lúc đó, nhà vua ra lệnh cho phân phát tài sản đến những người nghèo trong cả nước. Bên cạnh đó, vua thường xuyên đến gặp vị thầy để học đạo giải thoát vàphát tâm quy y làm đệ tử Phật-đà. Vua khuyên mọi người giữ gìn 5 điều đạo đức: không sát sinh hại vật, không trộm cướp lường gạt, sống thủy chung một vợ một chồng, không nói dối hại người, không uống rượu say sưa và tu 10 điều thiện. Vua cũng đã và đang thực tập sống đời đơn giản bằng cách giữ nghiêm giới cấm. Chính ngay tại đây và bây giờ, vua đã cảm thấy mình là người giàu nhất vì dám từ bỏ hết tất cả mà sống đời đơn giản, đạm bạc.

Cuộc sống của dân chúng khắp mọi nơi đều được cơm no, áo ấm, sống trong vui vẻ, hạnh phúc nhờ thấm nhuần lời Phật dạy. Trước khi băng hà, nhà vua đã truyền cho con trai mình là vị thái tử kế nhiệm khắc lên tấm mộ bia hàng chữ: Tâm biết đủ là người giàu nhất thế gian.

Người Phật tử chân chính biết quay về bỏ ác làm lành lo tu học, nhờ đó mà bớt khổ được vui. Người biết tu đối với vật chất có bao nhiêu cũng thấy là đủ, không đòi hỏi hơn. Càng ham muốn nhiều là càng gây đau khổ cho mình và người. Ai cho rằng hưởng được đầy đủ dục lạc thế gian là sung sướng, hạnh phúc là đang sai lầm, không thấy đúng như thật. Chúng ta vì thèm ăn món ngon vật lạ nên phải giết hại các sinh vật. Suốt đời chúng ta cứ tìm cầu ăn uống nên từ đó đánh mất chính mình mà sống trong vô cảm.

Như chúng ta là người Phật tử chân chính đang trường trai giữ giới mà vì thèm ăn ngon nên nghĩ: “Hôm nay mình ăn thịt một bữa cho đã thèm.” Nghĩ như thế chúng ta liền phá trai phạm giới ăn một bữa thịt thật no nê để không còn thèm nữa. Nhưng ít lâu sau ta lại thèm rồi lại phá trai phạm giới lần nữa, cứ như thế mà khônggiữ giới trọn vẹnChúng ta phải biết, tham muốn nhiều là gốc của đau khổ trong luân hồi sinh tử. Khi vừa khởi niệm tham muốn, chúng ta quyết chí không chiều theo nó để giữ cho thân tâm được trong sạch. Bệnh của con người là muốn được cái này lại tiếp muốn cái khác, cứ như thế mà muốn hoài đến khi gần ch*t nằm trên giường vẫn tiếc nuối những thứ mình chưa thực hiện được. Chúng ta có ít thì sống theo ít, khi có dư thì chia sớt cho người cần, ta thấy rõ vật chất là tạm bợ nên không khởi tâm mong cầu, tham đắm.

Người hàng ngày chạy theo dục lạc thế gian khi gần ch*t thân xác hư hoại mà tình ái cứ buộc ràng với gia đình, người thân không muốn xa lìa nên tiếc nuối trong đau khổ; lại không biết mình sẽ đi về đâu nên hoang mang lo sợ trong khủng hoảng.

Người biết tu hạnh buông xả không chất chứa nên ba nghiệp lúc nào cũng thanh tịnh, tinh thần bình tĩnh, sáng suốt nên khi trút hơi thở cuối cùng rất nhẹ nhàng, an ổn vì đã biết chỗ đến. Đành rằng con người ai cũng ch*t, nhưng người chạy theongũ dục tạo nghiệp ác khi ch*t ắt chịu quả báo khổ đau, người tu không tạo nghiệp ác mà tu nghiệp lành thì đến khi ch*t sinh vào cõi lành, hưởng phước an vui hoặc được tự tại, giải thoát.

Người thế gian vì mê muội không thấy được sự thật nhân quả nghiệp báo nên mớitham muốn, say mê, đắm nhiễm cho dục lạc là số một. Người ý thức biết tham muốn nhiều là tai hại, là đau khổ nên sống đời đơn giản, đạm bạc để vững chải,thảnh thơi.

Chúng ta tham muốn về ngũ dục có nghĩa là tham muốn về tiền bạc, của cải, vật chất, nhà cao cửa rộng, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, đắm mê sắc đẹp, ham danh vọng quyền cao chức trọng, thích ăn ngon mặc đẹp và ngủ nhiều.

Người thích ăn ngon thân phải chạy ngược chạy xuôi toan tính lo làm cho có nhiều tiền mới mua được bữa ăn ngon theo sở thích. Như vậy thì tâm lao nhọc, thân vất vả mới có được bữa ăn vừa miệng. Người đắm mê sắc đẹp cả đời cứ đuổi theo hình bóng bên ngoài thì sức khỏe hao mòn, tiền bạc hao hụt, có khi dẫn đến thân tàn ma dại. Người tham danh, kẻ tham tài cũng vậy, họ phải chạy ngược chạy xuôi tranh danh đoạt lợi mà làm tổn hại kẻ khác.

Người nào còn tham muốn là còn khổ, tham muốn nhiều thì khổ nhiều, tham muốnít thì khổ ít. Chúng ta tham muốn cái gì cũng đều khổ cả, chỉ người biết đủ thì sống đời an nhàn, thảnh thơi.

Người tu trong 4 món ăn, mặc, ở, bệnh được tín thí cho bao nhiêu thì dùng bấy nhiêu, không tham cầu đòi hỏi cho nhiều để tiêu dùng cho thỏa thích hay chất chứa. Như vậy, muốn hết khổ chúng ta phải thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ nơi tâm để thấy rõ nguyên nhân đau khổ là do tham muốn nhiều mà dừng gây tạo nghiệp ác. Như vậy, tâm biết đủ là người giàu nhất thiên hạ.


16. TÂM LÀ CHỦ NHÂN CỦA BAO ĐIỀU HỌA PHÚC


Muốn thân này khỏe mạnh, ít bệnh hoạn chúng ta chỉ cần nỗ lực làm cho tâm lặng lẽ, sáng trong. Tâm tham lam ích kỷ, giận hờn trách móc, ganh ghét tật đố, cuồng si điên dại và lo lắng sợ hãi tất nhiên làm cho thân thêm bệnh hoạn vì tâm đã bịvẩn đục.

Tâm là gốc của thân, tâm có yên thì gốc mới vững vàng. Thân thể này sở dĩ bị bệnh hoạn là do tâm bị vô minh che lấp nên tâm hồn u tối, mê mờ. Muốn thân này khỏe mạnh, ít bệnh hoạn chúng ta chỉ cần nỗ lực làm cho tâm lặng lẽ, sáng trong. Tâm tham lam ích kỷ, giận hờn trách móc, ganh ghét tật đố, cuồng si điên dại và lo lắng sợ hãi tất nhiên làm cho thân thêm bệnh hoạn vì tâm đã bị vẩn đục.

Chính vì vậy mà ngài Thần Tú nói:

Thân là cây Bồ Đề

Tâm như đài gương sáng

Luôn luôn siêng lau chùi

Chớ để dính bụi bặm.

Ngài Thần Tú ví thân này như cây Bồ đề cũng đúng, nếu không có thân làm sao mình có cơ hội làm những điều thiện ích. Chính đức Phật cũng nói sở dĩ ta được tu hành viên mãn là nhờ có thân này. Nhưng thân này từ đâu có? Nhờ mẹ sinh, cha nuôi dưỡng. Người không tu sẽ chấp vào thân mà làm các việc xấu ác như những người chấp thần ngã, chấp có cái ngãlâu dài; đời này như thế, đời sau cũng vậy nên mặc tình gây tạo tội lỗi; đến khi phước hết họa đến phải chịu khổ sở vô cùng. Tuy thân này rất quý nếu biết sử dụng đúng chỗ sẽ đượclợi lạc lâu dài, nhưng không có tâm thân này coi như phế bỏ. Do đó, ngài Thần Tú nói “tâm như đài gương sáng”. Thân và tâm không thể tách rời nhau, thân làm việc tốt hay xấu là do tâm điều khiển, chỉ đạo.

18. THẾ GIAN NÀY KHÔNG CÓ AI BAN PHƯỚC GIÁNG HỌA


Không có cái gì do một nhân mà hình thành, nếu ai nói như thế thì biết người này chưa hiểu rõ lý nhân quả. Lýnhân quả là nền tảng cơ bản sống còn của con người, nếu chúng ta biết áp dụng vào thực tiển thì người người sẽ được cơm no áo ấm, nhà nhà an vui hạnh phúc, xã hội sẽ không còn lầm than đau khổ vì con người biết sống yêu thương hơn.


Đất nước Ấn Độ là nơi xuất hiện nhiều trường phái tâm linh và triết học, đa số đều chấp nhận có một đấng tối cao ban phước giáng họa, ai tin và làm theo thì sẽ được hưởng phước báu vô lượng vô biên, ai không theo thì sẽ bị đọa lạc. Vì thế các ông vua thờiphong kiến thường tự xưng mình là thiên tử tức con trời, thay trời trị vì thiên hạ. Một ông vua nọ vì quan niệm như vậy nên nghĩ rằng tất cả thần dân thiên hạ đều do mình ban cho phúc lộc. Nhà vua có một vị hoàng hậu rất tin kính Tam bảo, bà hay làm việc phước thiện cúng dường trai Tăng và thường giúp đỡ người nghèo khổ. Cả nước ai cũng đều biết đến bà, như là một vị Bồ tát Quán Thế Âm thị hiện đi vàođời để cứu độ chúng sinh.


Vua thường nói với hoàng hậu rằng sở dĩ ngày nay thiếp được hưởng vinh hoa phú quý, nàng đượcăn ngon mặc đẹp, có kẻ hầu người hạ và được hưởng hạnh phúc đều do trẩm ban cho. Dạ thưa đại vương, thiếp thì lúc nào cũng yêu thương và quý trọng đại vương, nhưng nếu đại vương cho phép thiếp sẽ trình bày một số quan điểm và hiểu biết mà thiếp đã học được qua lời Phật dạy. Được thần thiếp cứ nói đi, trẩm cho phép đó. Ngày nay thiếp làm hoàng hậu được hưởng vinh hoa phú quý, là không phải do bệ hạ ban cho mà chính thần thiếp đã gieo trồng phước đức từ nhiều kiếp, nên ngày nay mới hưởng được quả báo tốt đẹp.


Vua nghe hoàng hậu nói vậy trong lòng không được vui, vì vua nghĩ rằng ta là thiên tử tức con trời là người có quyền ban phước giáng họa. Để cho hoàng hậu biết được quyền uy thế lực của mình, đêm hôm đó nhà vua cho nàng uống Thu*c ngủ và nhân cơ hội này, nhà vua liền lấy chiếc nhẫn kim cươngđã trao tặng cho nàng nhân ngày cưới đem quăng xuống sông. Sáng thức dậy không thấy chiếc nhẫn đâu cả, hoàng hậu trong lòng cảm thấy buồn đôi chút liền trình cho nhà vua biết. Nhà vua nói, nếu là phước do nàng tạo ra thì hãy làm sao có chiếc nhẫn trở lại đi, nếu đúng như vậy ta mới tin lời Phật dạylà chân lý ta sẽ qui hướng Phật đà, hộ trì chính pháp và cung kính làm theo lời Phật dạy. Nói xong nhà vua cảm thấy khoan khoái trong lòng, vì ngài biết chắc rằng chiếc nhẫn dù có mọc cánh cũng không thể nào bay trở về chỗ của hoàng hậu được.


Quả thật là rất khó cho hoàng hậu, một đàng vô tình, một người cố ý, vậy luật nhân quả có công bằng và bình đẳng hay không? Nhưng lời Phật dạy không sai, nhân gì do chúng ta đã tạo, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất. Khi hội đủ nhân duyên thì quả báo hoàn tự hiện. Hoàng hậu lúc này thật sự quá lo lắng, không biết phải làm sao để có chiếc nhẫn trở lại đây. Nàng ta chỉ biết thầm nguyện trong lòng, nếu Phật pháp linh hiển không thể nghĩ bàn, thì sẽ khiến cho nàng có được chiếc nhẫn trở lại. Lạ thay, cái gì đến sẽ đến khi hội đủ nhân duyên. Không thể có cái gì đó, do một nhân mà hình thành.


Ba ngày sau, một cô cung nữ phát giác ra chiếc nhẫn nằm trong bụng cá và đem trả lại cho hoàng hậu. Lúc này sự thật đã quá rõ ràng nhà vua không thể ngờ Phật pháp quá cao siêu và mầu nhiệm. Từ đó, nhà vua tín kinh ngôi Tam bảo và phát nguyện thọ trì gìn giữ năm điều đạo đức. Khuyên dân chúnggiữ giới không được Gi*t người và hạn chế tối đa giết hại các loài vật, xóa bỏ tập tục giết vật cúng tếthần linh. Không được gian tham trộm cướp lường gạt lấy của người dù là cây kim cọng chỉ. Trộm là lén lấy, cướp là công khai lấy, cho đến dùng quyền lực để ép lấy cũng gọi là cướp. Giới thứ ba người Phật tử có quyền lấy vợ lấy chồng, ngoài vợ chồng chính thức không được quan hệ dan díu với vợ chồng người khác. Làm như vậy coi như phạm giới tà dâm vô tình phá nát hạnh phúc gia đình người. Không được nói dối để hại người, nếu nói dối để cứu người giúp người thì không sao. Không được uống rượu say sưa và dùng những chất kích thích như xì ke M* t*y, vì là nhân dẫn đến si mê đọa lạc gây đau khổcho nhiều người.


Xưa nay các vị vua thời phong kiến đều cho rằng mình là thiên tử thay trời trị vì thiên hạ, họa hay phúc của con người đều được vua sắp đặt nên làm vua thì muốn giết ai thì giết, muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, không ai có quyền cãi lại. Chính vì quan niệm độc tôn đó, đã làm cho thế giới loài người phải chịu khỗ đau bởi quyền lực phong kiến. Ngày nay trên đà tiến của nhân loại con người thông minh hơn, nên đã thấy rõ ràng thế giới này là trùng trùng duyên khởi. Tất cả mọi hiện tượng sự vật tương quan, tương duyên, tương sinh lẫn nhau theo chiều nhân duyên.


“Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt”.


Không có cái gì do một nhân mà hình thành, nếu ai nói như thế thì biết người này chưa hiểu rõ lýnhân quả. Lý nhân quả là nền tảng cơ bản sống còn của con người, nếu chúng ta biết áp dụng vào thực tiển thì người người sẽ được cơm no áo ấm, nhà nhà an vui hạnh phúc, xã hội sẽ không còn lầm thanđau khổ vì con người biết sống yêu thương hơn.

Còn tiếp...
Thích Đạt Ma Phổ Giác

TIN, BÀI LIÊN QUAN:

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/con-duong-duy-nhat-p4-d27895.html)
Từ khóa: con đường

Chủ đề liên quan:

con đường

Tin cùng nội dung