Tâm linh hôm nay

Giới luật là nguồn sinh lực Tăng già và nền tảng xây dựng đạo đức xã hội

Ngay từ thời cổ đại, khi con người biết tụ tập nhóm họp, sinh hoạt thành bầy đoàn và phân công lao động thì cũng chính là lúc họ biết định đặt ra những điều lệ, quy ước để cho mọi người cùng nương theo đó thực hành nghĩa vụ cũng như có thể nhờ đó mà bảo đảm được lợi ích và quyền lợi của những người sống trong tập thể quần cư đó.

I. DẪN NHẬP

Ngay từ thời cổ đại, khi con người biết tụ tập nhóm họp, sinh hoạt thành bầy đoàn và phân công lao động thì cũng chính là lúc họ biết định đặt ra những điều lệ, quy ước để cho mọi người cùng nương theo đó thực hành nghĩa vụ cũng như có thể nhờ đó mà bảo đảm được lợi ích và quyền lợi của những người sống trong tập thể quần cư đó. Dần dần theo thời gian, xã hội ngày một văn minh và phát triển, khi họ biết xây dựng quốc gia chủng tộc thì cũng là lúc họ xây dựng nên nền hiến pháp, luật lệ của đất nước và chủng tộc ấy. Cứ như vậy, mỗi một nhóm, tổ chức ra đời lại đặt ra những pháp luật, nguyên tắc, luật lệ của những tổ chức ấy, ngay cả giới luật của các tôn giáo.

Như vậy, pháp luật hay giới luật là những điều ước, quy định mà như ta thấy nhằm để bảo vệ, xây dựng và phát triển cộng đồng ấy ngày càng văn minh, vững mạnh.

Phật giáo cũng vậy, theo quy luật tất yếu của tự nhiên, xuất hiện trong một xã hội lắm biến động và tham vọng, con người luôn luôn biến đổi bởi những điều kiện vật dục, tất nhiên không thể nào không lấy giới luật làm nền tảng để bảo vệ đời sống thanh tịnh và hoà hợp tăng già. Thế nhưng, vượt lên trên, Giới luật Phật giáo không những bảo vệ đời sống, là nguồn sinh lực của tăng già mà như chúng ta thấy, nó còn là nền tảng để xây dựng đạo đức xã hội, là con đường đưa đến bến bờ giải thoát.

“Giới luật là thọ mạng của phật pháp, giới luật còn là Phật pháp còn”.[1] Vì thế cho nên trong kinh Di giáo, lúc sắp nhập Niết bàn, đức Phật đã ân cần tha thiết dặn dò các hàng Tỳ Kheo: “các Thầy Tỳ kheo, sau khi ta diệt độ, các Thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu ta ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy…” (Kinh Di Giáo, HT.Trí Quang dịch)

Xem thế thì đủ biết giới luật trong Phật giáo quan trọng đến mức nào. Tuy nhiên, để thấy rõ giá trị “Giới luật là nguồn sinh lực tăng già và là nền tảng xây dựng đạo đức xã hội” một cách sâu rộng chúng ta sẽ tìm hiểu những chi tiết dưới đây.

VI. GIỚI LUẬT – NỀN TẢNG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI

1. Quan Niệm Về Đạo Đức

Nói đến đạo đức là nói đến một phạm trù khái niệm rộng lớn được thể hiện qua những quan niệm của những tập thể, dân tộc hay quốc gia nào đó. Có thể ở mỗi quốc gia có những quan niệm về đạo đức khác nhau nhưng vấn đề cơ bản vẫn không ra ngoài quan niệm về luân lý nhân sinh của con người như thiện ác, hạnh phúc, công bằng, tự do v.v… theo chuẩn tắc chân thiện mỹ. Và tất nhiên, nền đạo đức chân chính phải vì con người. Socrate, một triết gia cổ Hy Lạp nói:“một nền đạo đức thì không thể căn cứ vào một giáo lý mơ hồ, ta có thể tạo dựng một nền luân lí không phụ thuộc vào thần học, hoàn toàn thích hợp với những người có tôn giáo cũng như không tôn giáo thì xã hội mới ổn định”.[17]

2. Nền Tảng Xây Dựng Đạo Đức Theo Giới Luật Phật Giáo

Đạo Phật sống không phải vì cá nhân mà vì xã hội do đó đạo Phật tồn tại cũng không ngoài xã hội. Tuy hướng về mục đích giải thoát nhưng tinh thần của Phật giáo là tinh thần nhập thế dấn thân, đặt nền tảng lợi ích của tập thể, của số đông lên trên mọi lợi ích của cá nhân. Chính ý nghĩa của Tăng già đã khẳng định nên tinh thần đó. Do vì Phật giáo luôn đề cao lợi ích của con người nên giới luật Phật giáo không thể tách rời hay biệt lập với nền đạo đức thế gian.

Trong một chừng mực nào đó thể coi đạo đức đồng nghĩa với hạnh phúc. Do vậy, nếu hạnh phúc là đích đến của xã hội thì giới luật Phật giáo hoàn toàn đáp ứng một cách đầy đủ các điều kiện để xây dựng nền tảng đạo đức, hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp và thái bình. Bởi giới luật Phật giáo được xây dựng trên căn bản Giới Định Tuệ. Giới định tuệ là ba mặt của một vấn đề, không thể tách rời nhau. Trong giới luôn có sự hiện hữu của Định, Tuệ. Định và Tuệ làm điểm tựa và soi sáng cho Giới.

Đời sống xã hội từ xưa đến nay luôn luôn biến động và đầy dẫy những sự bất công, thù nghịch. Hết chuyện này đến chuyện khác, từ sự giành giựt nhau một miếng ăn nho nhỏ đến sự tranh chấp giữa những quyền lợi giữa các gia đình, xóm làng và cả chiến tranh thôn tính lẫn nhau; Rồi nào là ỷ mạnh hiếp yếu, tàn sát những lương dân vô tội; đâm thuê chém mướn; trong gia đình vợ chồng không tin tưởng nhau, cha mẹ con cái bất hoà; người lường kẻ gạt; kẻ say người xỉn dẫn đến những hành động không biết đến lương tri đạo đức v.v… những sự việc như vậy ta có thể bắt gặp, nghe thấy ở bất cứ nơi nào, bất cứ thời điểm nào. Tại sao lại như vậy, tại họ thiếu tình thương, thiếu sự hiểu biết thông cảm lẫn nhau nên mới đưa đến những sự việc như vậy.

Trước tình cảnh ấy, Phật giáo xây dựng nên năm giới như là thước đo, là thành trì để bảo vệ, xây dựng hạnh phúc, đạo đức xã hội. Tuy nhiên, năm giới là điều kiện tối thiểu mà không phải là tất cả của người phật tử. Nếu thực hành được năm giới này một cách hoàn chỉnh chính là đã xây dựng một thế giới an bình hạnh phúc, hay một nhân gian tịnh độ, theo Phật giáo. Vậy năm giới ấy là gì? Đó là: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không uống rượu.

Trong năm giới ấy, mỗi mỗi đều được xây dựng trong tinh thần xây dựng, bảo vệ lợi ích cá nhân và cộng đồng. Khi mình giữ giới không những cá nhân được lợi ích mà cả những người chung quanh cũng hưởng những hạnh phúc theo. Như các bậc cổ nhân thường nói: “Nhất nhơn tác phước thiên nhân hưởng, độc thọ khai hoa vạn thọ hương” là bởi ý ấy. Ngoài ra năm giới còn có một số tính chất tiêu biểu cơ bản như sau:

a. Mọi người ai cũng muốn bảo vệ đời sống, thân mạng, của cải, hạnh phúc của mình mà không muốn có bất cứ sự xâm hại nào từ người khác. Không muốn người làm tổn hại mình thì mình cũng không làm tổn hại người. Như vậy hạnh phúc ở đây luôn được bảo vệ bởi tính chất hai mặt của sự thọ trì giới. Ngoài ra, mình sẽ không bị quả báo cũng như kết những mối oán thù bởi do mình thọ trì giới này.

b. Ý thức được rằng, nếu không thực hành những điều giới trên thì không những cá nhân mình bị tổn hại mà gia đình, xóm làng và xã hội mình chung sống không những không bảo toàn được sự an lạc, hạnh phúc mà còn có thể là nguyên nhân dẫn đến những sự đấu tranh, xung đột và có thể tiêu diệt lẫn nhau. Do đó, không làm điều ác mà cần phải làm điều thiện; không gây tổn hại mạng sống, của cải, phẩm hạnh mà còn phải bố thí; không trộm cướp mà phải phóng sanh; không tà hạnh mà phải bảo vệ phẩm hạnh của tất cả mọi người; không nói dối, dua nịnh mà nói những lời ngay thẳng, chân thật, lợi ích; không uống, sử dụng những thứ chất làm cho say đắm tâm hồn mà cần phải xoá tan những thứ ấy và làm cho cuộc sống trong sạch hơn.

c. Thọ trì năm giới là thực hành năm sự bố thí vô hạn hay còn gọi là Ngũ đại thí giới. Bởi không giết hại thì mọi người chung quanh không có còn lo sợ sát hại; không trộm cắp thì mọi người không còn sợ mất trộm và cướp giựt; không tà hạnh thì mọi người không còn lo sợ có người quấy nhiễu… Chính nhờ thọ trì giới mà mọi người luôn yên ổn, hạnh phúc, tin tưởng lẫn nhau, cuộc sống không còn sợ sệt thì tất nhiên bóng dáng của khổ đau cũng không còn.

d. Giới luật của Phật giáo được xây dựng trên nền tảng Từ bi và trí huệ cho nên ngũ giới cũng có nền tảng là từ bi và trí tuệ. Điều cần phải chú ý khi thọ trì ngũ giới là phải luôn thực hành, xây dựng tình thương và trí tuệ. Tình thương để bồi đắp, xây dựng cuộc sống thêm đáng yêu đáng sống; trí tuệ để thấy, để nhận biết những ác pháp, lỗi lầm mà tranh xa. Vì thế, trì ngũ giới cũng chính là thực tập tâm từ bi và trí tuệ. Và đây cũng chính là nét đặc biệt nhất của Ngũ giới hay Phật giới.

Với những điều trình bày ở trên, tuy có thể chưa đầy đủ những nét đăc sắc của giới luật Phật giáo nhưng ở một chừng mực nào đó đã cho chúng ta thấy được những điểm trọng yếu, cơ bản để xây dựng nền tảng đạo đức thế gian.

VII. GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG HIỆN TẠI

Giới luật Phật giáo ngay từ xưa đã khẳng định được vai trò trọng yếu của nó trong đời sống tăng đoàn cũng như sự trường tồn của chánh pháp. Và ngày nay, giới luật không những không còn giá trị mà ngược lại nó lại càng cần thiết hơn bao giờ hết.

Chúng ta cần lưu ý rằng, thời Phật tại thế, Tăng đoàn đa phần là những bậc thánh giả vô lậu tu tập, sinh hoạt thế mà vẫn còn có những hữu lậu phát sinh làm quấy nhiễu đời sống thanh tịnh, hoà hợp đến nỗi khiến đức Phật phải chế giới luật để ngăn chặn và bảo vệ. Còn trong thời đại ngày nay, tăng đoàn Phật giáo không những bị những vật lợi ích vật chất chi phối một cách sâu nặng, tâm trí u ám, nghiệp chướng sâu dày mà bên cạnh đó còn có những kẻ lợi dụng những danh nghĩa khác nhau trà trộn vào Phật giáo để phá huỷ đạo Phật.

Hiện tượng này không phải hiếm mà nhan nhãn khắp mọi nơi, mọi tự viện và tỉnh thành. Điều đáng buồn hơn là tăng già Phật giáo lại bị điều khiển bởi những nhân vật này khiến cho Phật giáo không còn đúng với nguyên nghĩa của nó. Tất nhiên trong những trường hợp ấy, giới luật không phải không phát huy được tác dụng mà bởi vì sự lãng quên của những người hành trì hay bởi sự cố tình vùi dập của một vài thành phần bất chánh trà trộn vào trong tăng già đó.

Cũng có một số tỳ kheo, không biết vì vô tình hay cố ý, mà rêu rao huỷ bỏ giới luật hay không công nhận những giá trị của giới luật mang lại. Họ cho rằng giới luật thật sự không cần thiết trong thời đại mà ta chỉ cần bấm nút là có thể lên tới cung trăng, rằng những những người thọ trì giới luật là những người cổ lỗ xỉ, là lạc hậu. Đối với họ, chỉ cần thâu thập thật nhiều kiến thức khoa học thế gian là có thể làm thầy thiên hạ và có đủ mọi thứ cung dưỡng rồi.

Tất nhiên, nguyên nhân chủ yếu vẫn là người thọ trì Phật giới ngày hôm nay không quyết tâm, chí thiết trong thọ trì cũng như không am hiểu về luật tạng nên khi vướng mắc vào sự việc liền lúng túng không biết cách xử sự, đôi khi thành ra phá giới, phá kiến. Đức Phật dạy: “chỉ có trùng trong sư tử mới ăn thịt của sư tử”. Cũng vậy, sự hoà hợp thanh tịnh của tăng đoàn, sự trường tồn của Phật pháp nếu có hoại diệt cũng bởi chính những thành phần đệ tử Phật không thọ trì giới luật mà thôi.

VIII. KẾT LUẬN

Cần phải hiểu giới luật không phải là điều kiện tối ưu mà là điều kiện cuối cùng. Quan trọng nhất là phải tự giác ngộ bản thân và cải đổi tâm ý. Khi tâm thanh tịnh thì mọi cảnh giới đều thanh tịnh, nghiệp chướng cũng tiêu trừ. Trong trường hợp không thể bảo vệ đời sống thánh thiện giải thoát thì lúc ấy giới luật là hàng rào bảo vệ những phạm hạnh, đạo đức cũng như sự thanh tịnh, hoà hợp.

Khi nào xã hội còn có những vương mang trong vòng tội lỗi, khi nào tăng đoàn phật giáo còn có những hữu lậu phát sinh thì khi ấy vẫn cần sự hiện hữu của giới luật.

Xã hội biến đổi, thời gian biến đổi, con người cũng thay đổi thế nhưng giới luật vẫn giữ nguyên trạng thái cũ tất sẽ không phù hợp với lối sống và hoàn cảnh hiện tại. Do vậy, muốn giới luật mãi còn được lợi ích và giữ vững giá trị của nó thì đòi hỏi chúng ta cần phải có những cái nhìn thông thoáng về giới luật. Ngoại trừ những tánh giới, những điều còn lại chúng ta cần phải có một cái nhìn và ứng xử cho thật linh động phù hợp.

Tuy nhiên công việc ấy thật rất khó khăn, khó có ai dám đảm đương. Nhưng thiết nghĩ, thuở xưa, văn hoá tập tục khác nên dân tộc ta ăn mặc những trang phục khác, còn thời điểm hiện tại, thuận theo trào lưu chung, lối trang sức ăn mặc của chúng ta cũng thay đổi theo, miễn sao không có sự lập dị và trái với thuần phong mỹ tục thì sự thay đổi ấy là cần thiết. Nếu cứ khăng khăng giữ lề lói cũ thì đó chính là kẻ không nhìn thấy được giá trị của việc ăn mặc, trang sức.

“Nếu chúng ta giữ gìn những quy chế mà thực tế nó không có mội trường để “dừng ác sinh thiện” thì quả là vô bổ, nhọc sức”.[18] Do đó, Thánh giới của phật giáo sở dĩ còn mãi giá trị chính là ở tính linh hoạt và bảo đảm được sự thanh tịnh và hoà hợp trong tăng đoàn. Một khi giới luật không thoả mãn các điều kiện ấy thì thiết nghĩ giới luật chỉ là một mớ giáo điều ràng buộc con người trong khổ đau mà thôi.

Thích Nguyên Tuấn - khóa 6

Nguồn: http://www.hoalinhthoai.com/news/detail/news-533/Gioi-luat-la-nguon-sinh-luc-Tang-Gia-va-nen-tang-xay-dung-dao-duc-xa-hoi.html

[1] Thích Trí Thủ, Tâm Như Trí Thủ Toàn Tập. TPHCM: NXB TPHCM, 2002, Tr.116

[2] Trí Thủ 102

[3] Thật Dụng Phật Học Từ Điển (chữ Hán). Trung Hoa Dân quốc thứ 23, Hương Cảng Phật Kinh xuất bản, tr. 918

[4] Tuệ Đăng dịch, Giới Luật Cương Yếu, tr. 320

[5] Xem Tập san Pháp luân số ….. trg

[6] Thích Đổng Minh (dịch). Luật Ngũ Phần Tập I, Quyển 1 (lưu hành nội bộ). 1997, tr. 6

[7] Thích Đổng Minh dịch, Luật Ngũ Phần Tập II, Q.22 (lưu hành nội bộ). 1997, Tr. 204

[8] Thích Trí Thủ, Yết Ma Yếu Chỉ. TPHCM, Trường Cao Cấp PHVN , 1991, tr.11

[9] Sđd, tr. 11-12

[10] Thích Minh thông., Theo Dấu Chân Xưa. TPHCM: NXB Tôn Giáo, 2003, tr.70

[11] Xem chi tiết bảy Phi tướng yết Ma trong Yết Ma Yếu Chỉ, sđd, tr. 36-38

[12] Mười điều lợi ích của việc thọ trì giới: 1. nhiếp thủ ư tăng. 2. linh tăng hoan hỷ. 3. linh tăng an lac. 4. linh vị tín giả tín. 5. dĩ tín giả linh tăng trưởng. 6. nan điều phục giả điều phục. 7. tàm quý giả đắc an lạc. 8. đoạn hiện tại hữu lậu. 9 đoạn vị lai hữu lậu. 10. linh chánh pháp cữu trụ.

[13] Lược trích Chú Giải Luật Thiện Kiến doTâm Hạnh dịch,. (Lưu hành nội bộ 1999). Tr. 661

[14] Thich nữ Như Pháp dịch, Tứ Phần Luật San Bổ Yết Ma Huyền Ty Sao. Hà Nội, NXB Tôn Giáo, 2006, tr. 391-2.

[15] Thích Minh thông sđd, trg.70

[16] sđd tr. 72

[17] Trí Hải & Bửu đích dịch, Câu Chuyện Triết Học của Will Durant. SaiGòn, Tu thư vạn hạnh. 1971. tr.18

[18] Thích Minh Thông, sđd, tr. 45

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/gioi-luat-la-nguon-sinh-luc-tang-gia-va-nen-tang-xay-dung-dao-duc-xa-hoi-d15791.html)

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY