Hơn nữa, khí sắc chính là sức sống của bộ vị, nếu mũi cao mà không có sắc tốt thì bộ vị cũng chẳng đáng kể, ví như cái cây lớn nhưng bên trong đã hết nhựa rồi. Xem khí sắc chính là xem sức sống của con người vậy.
Giám mạo biện sắc, hữu chư nội tất hình ư ngoại (Nhìn diện mạo xem khí sắc, bên trong thế nào sẽ hiện ra bên ngoài thế ấy).
Ta thường bảo người này thần thanh khí sáng, mãn diện xuân phong, thổ khí dương mi hay nôm na là mặt mũi nở nang, sáng sủa, nở mày nở mặt để chỉ người đó lúc đắc ý.
Ta thường thấy người kia khí sắc ám hãm, thùy đầu táng khí hay nôm na là mặt xơ xác để chỉ người ấy lúc nghịch vận thất ý.
Như thế là ta đã coi khí sắc đấy. Có điều ta không thể biết trước vận suy vận hên qua khí sắc thôi. Xem tướng khí sắc để có thể biết trước sự hay dở sắp đến.
Trên trời mây đen kéo đến ai cũng biết sắp mưa, mặt người bỗng nhiên quang nhuận, sáng rỡ là triệu chứng sắp ăn nên làm ra.
Họa phúc chi lai, hữu kỳ tiên triệu, chí thành chi đạo khả dĩ tiền tri (Họa phúc sắp tới, bao giờ cũng có dấu báo, thành tâm học đạo, khả dĩ biết được trước).
Thời Dân Quốc có Trần Quả Phu, cánh tay đắc lực của Tưởng Giới Thạch, chuyên trông coi việc đảng. Phu là người giỏi về tướng pháp.
Một lần, Trương Quế, đảng viên cao cấp của Quốc Dân Đảng được cử đi làm tư lệnh tiếp vận đến chào từ biệt Trần Quả Phu.
Quế vì quân lệnh trong lúc chiến tranh nên tuy nghe Phu nói thế cũng đành chỉ vâng vâng dạ dạ, chẳng làm gì hơn được.
Thu xếp cùng gia quyến trở lại quê nhà, không ngờ nửa đường phi cơ Nhật xà xuống bắn vào xe Quế, xe lật nhào xuống, vợ bị thương con ch*t. Quế bị thương nhẹ.
Đầu thời Dân Quốc, tại Hán Khẩu có một thầy đông y chuyên trị về thận khí và đã nổi danh toàn quốc với hộp cao đan hoàn tán: Thận khí hoàn. Ông tên là Đường Tử Long. Chẳng những hay Thu*c mà thôi, ông còn giỏi nghề coi tướng, nhất là coi thần khí người ta để biết ch*t sống.
Có một lần, ông tới chơi nhà người bạn thân, nhân đi qua dược phòng ở bên cạnh nhà bạn, ông thấy một người tuổi trung niên vừa bước ra cửa. Ông sửng sốt và dừng lại ngó theo chừng vài phút rồi vội vào nhà bạn gọi người con trai bạn ra mà bảo:
- Bác đi qua trông thấy thần khí người ấy bất túc, chắc bệnh nặng đến nơi. Còn nặng hơn thế nữa, trước khi mặt trời lặn ngày hôm nay, người ấy có thể ch*t. Thần đã bại, khí đã tán chẳng còn cách chi cứu được. Chỉ còn cách là bảo em ông ấy đi tìm về để ông ấy được ch*t tại nhà trông thấy con cháu.
Gã thanh niên vâng lời qua nhà bên bảo với bạn đi mời ông anh về, nói dối là để xem mạch cho ông cậu (người ấy cũng là đông y sĩ) vừa bị cảm nắng.
Chừng xế trưa, người ấy trở về, rửa mặt định ngồi vào bàn ăn thì bỗng xây xẩm mặt mày ngã quay xuống đất. Cả nhà vội vực vào trong buồng cho uống Thu*c và cạo gió. Một lát ông ta tỉnh lại. Cả nhà vui mừng nghĩ rằng ông bị cảm qua loa thôi.
Ai ngờ khi Đường Tử Long đang ngồi đàm thoại thi phú với bạn bỗng nghe nhà bên tiếng khóc inh ỏi thảm thiết.
Nhờ nguyên khí nuôi dưỡng, con người thành trưởng mạnh hay yếu, lớn hay bé, thông minh hay ngu si. Danh từ nguyên khí rút từ lời giải nguyên thân chi tổ khí rồi gọi tắt mà thành. Lúc ta thở hít khí trời là tìm kiếm hậu thiên chi khí để tiếp với nguyên khí nuôi sống cơ thể.
Vậy cái khí sắc mà ta nói đây là nguyên khí hay cái khí tiên thiên chứ không phải cái khí hậu thiên. Nguyên khí tốt xấu do hấp thụ tinh linh âm dương ngũ hành khi còn ở trong bụng mẹ và khi mới ra chào đời.
Tuy nhiên, không phải chỉ có nguyên khí mới đáng kể, còn hai loại khí khác cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với vận số con người là: Hàm dưỡng chi khí, Sở tập chi khí.
Làm việc thiện ác thường có khí sở tập. Tỉ dụ: làm thiện trong lòng vui sướng có thể đem cái khí sở tập đó tưới cho nguyên khí tốt tươi, làm ác lo sợ thì cái khí sở tập đó tác hại cho nguyên khí khiến cho khí sắc ám hãm.
Sắc trệ chỉ nhân diện trần ai, người sắc trệ mà (màu?) như lấm tro than. Sắc trệ thì tai họa sắp tới. Tất cả bắt nguồn từ khí, cho nên mới phải gọi là coi khí sắc.
Ây bởi nguyên khí hấp thụ tinh linh dương ngũ hành nên mới có được cái tinh linh đó cũng như con kiến biết trước trời mưa nhờ tính linh cảm thấy những biến chuyển từ lòng đất cũng như máy Radar, cũng như máy thu thanh bắt làn sóng điện.
Mắt lờ đờ vô phúc lộc. Nhờ tinh thần thanh sảng nên ngồi đứng uy nghi. Vạn vật đều do tinh thần làm chủ.
Vui, buồn, mừng giận đều có sắc hiện trên mặt. Buồn mặt trắng bệch ra, giận mặt đỏ lên hay tím lại. Đó là sắc của bẩy tình. Còn sắc mà tướng học đi tìm là sắc ở trong tạng phủ phát hiện ra ngoài mặt hoặc ra lòng bàn tay. Sắc trên tướng học là tính linh tiên tri, tiên giác về cát, hung, họa, phúc. Người quân tử sắc thường minh lãng (sáng sủa). Kẻ tiểu nhân sắc thường ám trệ.
Sắc có ngũ hành: xanh thuộc mộc, đen thuộc thủy, đỏ thuộc hỏa, vàng thuộc thủy, trắng thuộc kim. Nếu đem áp dụng vào y lý để xem tướng tật bệnh thì sắc trắng ở phế (phổi) phát ra vì phế thuộc kim. Sắc xanh ở can (gan) phát ra vì can thuộc mộc.
Trên đây là lối nói của cổ nhân, sự thật mặt con người ta chẳng có ai lại vàng như tơ tằm hoặc xanh như rỉ đồng. Cổ nhân, nhất là người Trung Quốc vẫn hay quá hỏa. Vậy ta chỉ chấp nhận rằng sắc có ẩn hiện, đậm nhạt, đi và đến thế thôi. Chớ nệ cổ. Vàng tơ tằm là nó hao hao màu tơ tằm không phải đúng in như tơ tằm.
Sắc có hình thù hoặc lớn như hạt gạo, hạt đậu hoặc như những sợi tơ, hoặc một miếng vuông như con dấu hoặc tròn như hạt ngọc hoặc như đám mây.
Tuy phân ra làm ba nhưng vẫn chính là một thể, cho nên người có tinh thần vững chãi, không bao giờ khí lại táo cấp và sắc lại vội vàng.
Cho nên xem tướng dù người kia khí sắc tố thế nào chăng nữa trước khi luận đoán phải trở lại vấn đề thần.
Trở lại gốc cốt để xem triệu chứng tốt ấy có lâu bền hay không? hoặc xem triệu chứng xấu có nặng không? Khi nào thấy thần bại, khí tán là hết Thu*c chữa.
Mắt đục lờ, đen trắng lẫn lộn, thần quang hôn ám hoặc dưới mắt nườm nượp những tơ xanh gọi là sắc Câu trần sắp gặp vạ ở đâu bay đến.
Dưới môi hoặc cằm có sắc đen như đám mây đen gọi là sắc nguyên vũ (huyền vũ?), sợ người ám hại. Sắc đa số thuộc hung triệu, thiểu số thuộc cát triệu, dữ nhiều lành ít.
Sắc tốt chỉ có sắc hồng hoàng (vàng pha hồng) trông tựa như con tằm chín hiện lên đầu mũi, sơn căn ấn đường, mí mắt, giữa trán, lưỡng quyền, thiên sương, dịch mã và hiên môn, hai tai.
Tốt hay xấu đều phải có một điều kiện là sắc cầu quang ánh, nếu sắc xấu, quang ánh sẽ giảm xấu, tiêu khô, ám trệ càng tăng xấu, tiêu khô thì dù hồng hoàng sắc cũng chẳng đáng kể.
- Thủ sắc còn có danh Tụ sắc mầu vàng vàng ẩn ở dưới da thịt vừa đẹp vừa có thể mảng mảng đùn lên trông như người vừa được tắm nắng ngoài biển.
Tán sắc là có sắc mà vô khí. Đầy mặt quang thái hoa tạp hoặc sáng trên da mà ám dưới da, hoặc sắc mặt sáng nhuận mà lòng bàn tay vô khí sắc, lạnh lẽo, hoặc nhan diện minh lãng mà tai mũ dơ dáy đều thuộc tán sắc, chủ đại bại.
Hại sắc tức là sắc kiển trệ. Đầu mũi tro than, sắc mặt mờ ảo, chung quanh mắt u ám, hoặc như bôi mỡ vào mặt hoặc đỏ rầng rầng đều thuộc loại hại sắc. Chủ khốn cùng.
Trước khi đi vào phần nghiêm cứu, độc giả hãy đọc chuyện: “Mãn diện hồng quang bất nghi thu thiên” trích trong tập “Mệnh tướng đàm kỳ”.
Trần Tiểu Vương thường chế giễu Đào Bán Mai. Cụ Đào chỉ mỉm cười đáp lễ. Một lần Tiểu Vương đến nhà cụ Đào chơi, thấy Đào Bán Mai chú ý nhìn mình nên nói đùa: “Hôm nay tiên sinh sắp sửa giở tướng số ra nữa đấy phải không? Vậy xin tiên sinh quả thực có nom ra cái gì thì cho tôi hay, với điều kiện là đừng cà kê tương lai xa xôi, quá khứ đã ch*t”.
- Xin vâng lời tiên sinh. Tuy nhiên, việc đời phải có lý mới bắt người khác chịu phục. Tại sao trong vòng 14 ngày nữa, tiên sinh căn cứ vào đâu mà dám quả quyết sẽ có sự bất hạnh xảy đến cho tôi.
- Lúc này vào tiết cuối thu, theo định lý về khí sắc của tướng pháp thì không nên có hồng quang mãn diện như tiên sinh hiện thời. Theo tôi, tiên sinh cứ đóng cửa mà đừng làm gì nữa là hơn. Thu tiết thuộc kim, mặt đỏ là hỏa, hỏa khắc kim, tôi e có lao ngục chi tai, hoặc thất tán tiền tài chi họa.
Trần Tiểu Vương giật mình, vì cách đấy vài ngày, công việc thương mại của ông nghe tình không mấy tốt.
Do đó, Trần Tiểu Vương mới chịu nghe cụ Đào, về nhà đóng cửa không đi đâu hai tuần, không nghe điện thoại mà cũng không gọi điện cho ai. Mọi việc trong 14 ngày ấy, Tiểu Vương đều giao phó cho vợ giải quyết.
- Ông cụ xem tướng chỉ hại người ta. Lão Trần vì nghe cụ nên bỏ trễ công việc, hắn vừa thiệt hại một số tiền khá lớn, tin tướng với số thật mệt, chưa thấy lợi đâu đã thấy hại.
Trong khi đó thì thị trường giao động mạnh, bà Trần không đủ ứng phó, Tiểu Vương sốt ruột nhào ra cứu vớt tài sản, tự nghĩ rằng mình đã tán tài rồi thì khỏi lao ngục.
Quả nhiên, nhân một vụ hối lộ không khéo, Trần Tiểu Vương bị bắt giam vào ngày thứ 11 trong cái hạn mãn diện hồng quang bất nghi thu thiên.
Xuân thuộc mộc sắc cần xanh. Hạ thuộc hỏa sắc phải hồng. Thu thuộc kim sắc nên trắng. Đông thuộc thủy sắc cần đen.
Chỉ có màu vàng thuộc thổ. Bốn mùa màu vàng vô hại. Màu vàng lại là màu tốt, nên lúc nào vàng cũng được, chỉ cần phân biệt vàng của khí sắc đẹp hay vàng vọt bệnh tật thôi. Xin nhắc lại, sắc vàng của khí sắc tốt trông như màu vàng của con tằm vừa chín.
Tứ thời khí sắc là nói toàn bộ do mặt chứ không phải nói một vết một vầng hiện lên bộ vị. Nếu mùa thu mặt trắng rất tốt, nhưng nếu chỉ có vết trắng trên mũi vẫn phải theo luật khí sắc mà đoán. Có điều vệt trắng trên mũi vào mùa thu vì hợp với thời tiết nên bớt xấu. Xanh đỏ đen cũng cứ như thế mà đoán.
Vận khí là khí sắc hiện lên trên mặt. Đời người quý tiện tuy thuộc cách cục nhưng nhất thời cát hung thì thuộc khí sắc. Phàm diện bộ khí trệ sắc ám, dù cho tướng cách hay cũng vẫn cùng khốn. Nếu khí sắc sáng đẹp, dù cho tướng cách có dở cũng vẫn thông lọt.
Nhưng nếu dầy kinh nghiệm và xem tướng đạt đến bực cao thì sẽ hiểu khí sắc có thể biến ra hung hoặc biến thành cát.
Lưu niên là kể từ một tuổi đến 100 tuổi. Tỉ dụ 1 tuổi đến 5 tuổi, xem ở thiên luân (vành tai). Từ 40 đến 45 tuổi, xem ở thiên căn và sống mũi. (Về lưu niên bộ vị xin xem tướng trong hình vẽ).
- Vận khí cực thịnh thì ấn đường, thái dương, đầu mũi đều ửng ánh vàng hồng, râu ria mượt bóng, tóc nhuận sáng. Cầu quan cầu lợi, việc nào cũng như ý.
Nhưng nếu lưu niên bộ vị chủ chốt lại có khí sắc xấu thì những ánh vàng hồng kia tốt giảm đi quá nửa.
- Khi nào vận khí thoái thì khí sắc chỗ khô, chỗ nhuận không đều, sáng không ra sáng, ám không ra ám, địa các thì sắc trắng, đầu mũi lại vàng hồng. Chỉ nên giữ gìn địa vị đã có, chớ vọng động.
- Vận khí lâu bền thì tai, lưỡng quyền, ấn đường suốt năm sáng rỡ không ám hãm, lòng bàn tay đỏ hồng. Mắt có thể kém tươi sắc, nhưng khí vẫn bằng bằng. Mọi việc vẫn phát đạt.
- Tụ sắc là sắc tốt nhất. Tụ sắc là sắc có khí mạnh làm cho sắc trở nên sống động, sắc mà vô khí là sắc ch*t. Tụ sắc trông nó phơn phớt ong ong, mâng mâng từ dưới da đùn lên, phơn phơn vàng non, tầng tầng hồng nhạt, nhẹ nhẹ xanh xanh.
- Sắc ám trệ nhưng đôi mắt vẫn tinh anh, trong sáng tức là mắt có thủ thần, sắc mặt xanh u ám nhưng đầu mũi vẫn ong ong màu vàng, mặt đỏ nhưng dưới da có sắc vàng. Vận đang bỉ nhưng sắp bước qua vận tốt.
Diện sắc tốt nhưng hai mắt mờ đục, mặt hồng hào nhưng chốc chốc lại đỏ hoặc đen sạm, mặt ong ong vàng nhưng chốc chốc lại xơ xác tiêu khô, cứ một hai ngày lại biến mầu, mọi việc đều bất lợi.
Xem người già, xem huyết khí, không xem bộ vị, nếu da dẻ nhuận mịn màng, tóc râu óng mượt còn thọ, tiêu khô hết thọ.
Xem thanh niên lấy đầu mũi làm chuẩn, thấy hiện khí sắc vàng hồng là vận tốt. Ít hay nhiều tùy sự phối hợp với bộ vị.
Xem khí sắc muốn cho thật chuẩn xác thì phải xem buổi sáng lúc con người chưa ăn uống gì vì ăn rồi có thể làm sắc loạn.