Theo cổ nhân, tai nối liền với óc và thông với tâm thận. Thận khí tốt tai sáng, thận khí hư tai nghễnh ngãng.
- Tai cao hơn mắt, hơn chân mày không bao giờ khổ. Tai nở, sáng và tròn có chức vị. Dái tai mọng đỏ, tai sáng và sạch phú quý trường cửu. Có lông tai dài thì thọ. Mắt có thể liếc nhìn thấy tai, đại cát. Lỗ tai, cửa tai rộng rãi, thông minh. Tai trắng hơn mặt, đại phú. Vành trong vành ngoài tai phân minh bề thế, người nhân nghĩa, chính trực. Đứng trước mặt mà không trông thấy tai, tai giấu mặt, giầu sang.
Tai cần tròn, dày dặn và lớn, luân quách rõ rệt. Nếu không lớn thì cũng phải dày nghĩa là có thịt. Tai mỏng nhọn là tai xấu.
Sắc như huỳnh ngọc, niên thiếu tác tam công. Màu sắc tai trắng như ngọc tuổi trẻ nổi tiếng quyền vị cao.
Điểm nhục thùy châu hồng nhuận tự nhiên, chủ tài lộc hanh thông. Đầy đặn ôm sát lấy đầu, dái tai (thùy châu) mọng, sắc hồng nhuận thì tài lộc tự nhiên kéo đến.
Hậu đại thùy kiên cực quý thiên quá bát thập phương hung. Dày lớn chảy xuống vai cực quý, tuổi thọ nhất định phải ngoài 80 tuổi (chảy xuống vai, lớn và đầy mà ta thường thấy ở tượng Phật).
Tiêm tiểu trực như tiễn vũ an đắc bất cô cùng. Nhọn nhỏ thẳng như đuôi tên làm sao không cơ khổ, bần cùng.
Mệnh môn nan nhập chỉ thọ nguyên đoản, thiểu ngu mộng. Lỗ tai nhỏ quá ngón tay vô không lọt, kém thọ. Lỗ tai nông, kém thông minh.
Thổ nhĩ : Tai thuộc hành thổ, dầy chắc mập khí sắc hồng nhuận, phú quý, trường thọ. - Viên kỳ nhĩ: Tai tròn như quân cờ, dày dặn sáng đẹp, tay trắng làm nên.
Hổ nhĩ : Tai hổ nhỏ khuyết nhưng đứng trước mặt không thấy tai. Ưa mạo hiểm, hoạt động có thể thành công.
Tiễn vũ nhĩ : Tai đuôi tên, nhọn đuôi, nhọn đầu không có dái tai, cứng như gỗ hoặc mỏng như giấy. Phá tổ nghiệp, phiêu bạt giang hồ.
Thủy nhĩ : Tai tròn, cao trên mắt, áp vào đầu, thùy châu thật lớn, sáng đẹp là đại trượng phu trên thế gian.
Hỏa nhĩ : Vị trí tai cao hơn chân mày, vành ngoài nhỏ, vành trong lộn ra ngoài dù có thùy châu vẫn là loại tai xấu tướng.
Miệng là cơ quan để ăn cơm, uống nước và nói năng, là cửa ngõ của con tim, lẽ thị phi ở miệng mà thành. Không nói vọng ngôn bậy bạ, cổ nhân gọi là khẩu đức, hay phỉ báng chửi rủa là khẩu tặc. Miệng vuông vắn có thành có bờ chủ quý, như vầng trăng treo chủ lộc, rộng đầy đặn chủ phú. Miệng lệch mỏng, bần hàn. Không nói mà miệng động rung rung, đói khổ. Hai bên mép xệ xuống như miệng cá, phá bại.
Các sách Thủy Kính, Ma Y, Liễu Trang, Tướng Lý Hành Chân đưa ra nhiều hình miệng khác nhau. Tứ tự khẩu : Miệng vuông chữ Tứ, đôi môi thăng bằng dầy dặn quang minh, góc miệng muốt lên, thông minh và đa tài, có danh phận.
Ngưỡng nguyệt khẩu : Miệng như vầng trăng treo, góc miệng đưa lên thật rõ, răng trắng, môi hồng, văn chương đầy bụng, thiên hạ biết tên.
Loan cung khẩu : Miệng như vòng cung, góc miệng nhếch lên, đôi môi dày đỏ, phú quý lâu dài. Ngưu khẩu : Miệng trâu, đôi môi thật dầy quang minh hồng nhuận là tướng trọc trung đới thanh (trong đục có thanh) thì tâm linh sáng suốt, phú quý phúc thọ.
Long khẩu : Miệng lớn, đôi môi đầy đặn, hồng nhuận quang minh, hơi thở thơm tho, tiếng nói như sấm, đại phú quý.
Hổ khẩu : Miệng hùm thật rộng có thể nuốt được nắm đấm. Tích ngọc đôi kim, vàng bạc đầy nhà. Dương khẩu : Môi mỏng miệng nhọn, ăn uống hùng hục. Hung bần nghèo khổ dễ bị T*i n*n.
Trư khẩu : Miệng heo môi trên dài và thô, môi dưới nhỏ, hai bên mép ưa chảy dãi. Tâm gian nham hiểm không sống quá năm mươi, phiêu bạt.
Anh đào khẩu : Miệng trái anh đào, môi hồng, răng trắng và đều như hạt lựu, cười tươi, tính tình ôn nhã. Rất thông minh, có thể lên tới bậc nhất phẩm.
Sách tướng nói môi là thành quách của miệng. Môi nên dày dặn và có bờ môi, không nên mỏng và thiếu bờ (dan từ Hán gọi bờ là lăng). Màu sắc hồng nhuận, quang minh mới tốt. Xanh sám thì bệnh tật hoặc tai họa, hôn ám và đen có thể bị hung tử. Bóng bẩy đỏ, tham khoái lạc. Sắc trắng đẹp, có vợ hai giỏi giang. Sắc vàng đỏ minh sinh quý tử. Môi dúm dó, ch*t yểu. Mỏng và yếu, tham lam. Môi trên mỏng, ngôn ngữ xảo trá. Môi dưới mỏng, bần tiện. Môi trên môi dưới đều dầy, người trung tín. Cả hai môi đều mỏng, hay nói láo. Môi trên to, môi dưới nhỏ hay ngược lại, môi dưới nhỏ, môi trên thót thì bần hàn, ăn cắp, ăn trộm.
Tinh hoa của xương cốt hiện vào bộ răng. Đối với tướng pháp, răng phải chặt, khít và thẳng. Nếu răng hở cong queo, xiêu vẹo, khô lộ và xấu. Cổ nhân coi tướng răng ngoài những điểm kể trên còn xem răng nhiều hay ít. Tam Quốc truyện nói Tào Tháo có 38 cái răng là một bằng chứng.
Ba mươi tám, ba mươi sáu, ba mươi tư là kể mọc trên hai hàm răng, mọc chỗ khác gọi là nghịch, sinh không kể.
Răng như răng cưa, tính thô bạo (trên rộng dưới nhọn được ăn thịt, trên nhọn dưới bằng chỉ ăn rau). Răng trâu to rộng hàm khum, tự lập thân, tay trắng làm nên.
Lưỡi cử động như lưỡi rắn, tâm độc ác.